Trốn Trại – Nguyễn Ngọc Thạch
Sau
khi ở tù cải tạo đuợc 5 năm, khi tôi đang ở trại Suối Máu Biên Hòa, thì
có một số tù đuợc đua lên trại Tống Lê Chân gần An Lộc Bình Long. Tôi
mừng thầm là nếu đưa tôi lên Tống Lê Chân thì tôi có rất nhiều hy vọng
để trốn trại, vì tôi biết rất rõ vùng đất này. Đon vị đầu tiên khi tôi
mới ra truờng là Đại đội 11 thuộc Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 5
Bộ Binh đóng gần sân bay An Lộc Bình Long. Và trong suốt thời gian phục
vụ từ cấp Trung đội lên đến cấp Trung đoàn tôi vẫn ở trong vùng rừng
xanh đất đỏ này.
Giữa tháng 5 năm 1980, họ chuyển
tôi từ trại Suối Máu Biên Hòa lên trại Tống Lê Chân. Đây là một trại tù ở
giữa rừng, gồm các dãy nhà tranh với mấy lớp hàng rào kẻm gai bên ngoài
và một lớp hàng rào tre bao bọc bên trong che kín, không nhìn thấy đuợc
bên ngoài. Ở bốn góc và ngay cổng ra vào là các chòi canh đuợc trí súng
đại liên. Sau khi lên đến trại Tống Lê Chân, chúng tôi liền nghiên cứu
ngay kế hoạch để trốn, vì phải trốn càng sớm càng tốt.
Khi ở trại Suối Máu Biên Hòa tôi
có luợm được một cục nam châm hình trụ to bằng đầu ngón tay. Theo nguyên
tắc của địa bàn thì khi một thanh nam châm đuợc treo trên sợi chỉ, đuợc
quay tự do thì một đầu luôn luôn chỉ về huớng Bắc, còn đầu kia là huớng
Nam. Vì hai đầu giống nhau nên tôi phải dùng dầu hắc nhựa đuờng để làm
dấu đầu huớng Bắc.
Trong thời gian ở tù chung nhau
qua các trại, tôi có quen thân và hay tâm sự với Thu, một nguời cùng
thuộc Sư đoàn 5 Bộ Binh truớc đây và có cùng chung một quyết tâm là sẽ
cùng nhau trốn trại khi có dịp. Thu cũng cho biết là có thêm một nguời
bạn nữa cũng muốn nhập bọn đó là Bình. Bình là một nguời rất tháo vát,
lanh lợi và đã từng đổ đầu khóa học “Rừng Núi Sình Lầy” ở trường Biệt
Động Quân Dục Mỹ, Nha Trang. Bình đã làm đuợc một cái kềm để cắt kẻm
gai. Kềm này làm bằng hai quai xách của cuộn kẻm gai concertina, hai
quai xách này bằng thép rất cứng. Khi một đầu đuợc đập dẹp, mủi mài nhọn
và đục lổ, thì trông giống nhu luởi dao. Nhưng khi hai cái luởi dao
ghép chập vào nhau và dùng một cây đinh làm trục xỏ xuyên qua hai lổ,
thì biến thành một cái kềm để cắt kẽm gai.
Để chuẩn bị cho việc trốn trại,
mỗi nguời may một túi vải nhỏ bằng loại vải ngụy trang để đựng đồ mang
theo như lon guigoz, mì gói, gạo muối v.v…Mỗi nguời mang theo một bộ đồ
thật tốt, quần tây áo sơ mi bỏ trong bọc nylon thật kín cho khỏi uớt, để
bên trong áo truớc ngực, mặc đồ trận áo lính cũ bên ngoài. Ngoài ra tôi
còn may thêm một cái túi vải nhỏ để cất giữ cái địa bàn, có dây choàng
qua cổ để khỏi rớt mất. Mỗi lần đo là tôi rút một sợi chỉ từ lai áo trận
và nhờ tôi có làm dấu đầu huớng Bắc bằng dầu hắc nhựa đuờng nên tôi sờ
vào là biết để đi cả ban đêm. Chúng tôi phải kiểm soát lẫn nhau cho thật
kỹ, quần áo mặc, túi vải, đồ đạc mang theo tất cả đều phải đuợc ngụy
trang cho tiệp với màu cây lá trong rừng và không được gây ra tiếng động
chạm nào. Ngoài ra chúng tôi còn sắp đặt những gì sẽ bỏ lại, thật ít đồ
bỏ lại, cố ý ngụy tạo như là có ý định sẽ đi xa, tức là sẽ đi về huớng
Bắc để qua biên giới Kampuchia.
Buổi chiều hôm đó tôi và Thu cùng
ăn chung nhau, đem tất cả những gì ngon đem ra ăn, ngốn cho thật đầy
bụng để lấy sức tối đi. Tất cả đồ còn lại đem cho hết hoặc chôn dấu. Thu
đem cả túi balô quần áo cho bạn bè. Tôi có cho một nguời bạn cùng khóa
là Lương Văn Thìn mấy gói mì, mà bạn tôi không hiểu tại sao, tuyệt nhiên
tôi không có đá động gì tới chuyện trốn trại.
Suốt trong ba tuần lể liền, Thu đã
phải theo dỏi thật kỹ các toán tuần tra canh gác, giờ nào đi tuần, giờ
nào đổi gác v.v…Sau cùng chúng tôi đã đi đến quyết định giờ xuất phát là
9 giờ tối, khi máy phát điện vừa tắt thì bắt đầu chui ra. Ở đây mỗi tối
có máy phát điện cho công an coi truyền hình, đến 9 giờ thì tắt. Sau đó
họ về sửa soạn độ 15 phút sau là bắt đầu đi tuần. Và theo như chúng tôi
dự tính là phải mất 10 phút để cắt kẻm gai và 5 phút chót phải bò thật
nhanh qua con đuờng tuần tra là khoảng đất trống bên ngoài. Địa điểm
thuận lợi nhứt để chui ra là khoảng giữa hai chòi canh phía sau trại.
Ban đêm họ đứng gác trên chòi canh cao nên không thể thấy rõ ở duới đất
đuợc, theo đúng nguyên tắc canh gác ban đêm là phải ở duới thấp. Còn
ngày đi thì chúng tôi chọn vào cuối tuần trăng, để khi chui ra thì trời
còn tối, đến nửa đem trăng lên dễ thấy đuờng để đi. Chúng tôi chọn đêm
22 ta, âm lịch, vì tin dị đoan sợ đêm 23 ta là không tốt.
Đúng 8 giờ ruởi tối đêm 22 tháng 4
âm lịch tức là ngày 3 tháng 6 năm 1980, chúng tôi bắt đầu theo đúng kế
hoạch ra ngồi ngoài cầu tiêu, để chuẩn bị cắt dây lạt của lớp hàng rào
tre truớc, để đến đúng 9 giờ khi máy phát điện vừa tắt là chui ngay.
Nhưng không ngờ khi đó chúng tôi thấy ở ngoài suối có ánh đèn của công
an đang đi bắt cá ở duới suối, nên chúng tôi phải ngưng lại ngay và trở
vô ngủ như thuờng lệ.
Qua đêm hôm sau bắt buộc là phải
đi chớ không thể nào chần chờ được nữa, vì sợ nếu để lâu dể bị bại lộ.
Lần này cũng đúng 8 giờ ruởi là ra cầu tiêu, vì cầu tiêu là chổ tốt nhứt
để tới sát hàng rào mà không ai để ý. Bình bắt đầu cắt dây lạt của lớp
hàng rào tre và cố vạch ra một lỗ để sẳn sàng chui ra. Lớp hàng rào tre
này đuợc chôn sâu duới đất và sát khít nhau bằng hai lớp tre đan chéo
vào nhau dầy đặc. Vì vậy rất khó gở ra, phải đào sâu xuống đất mới vạch
ra một lỗ vừa chui và phải làm thật chậm thật kỹ vì sợ ở chòi canh nó có
thể thấy lúc lắc ở đầu ngọn tre. Khi máy phát điện vừa tắt bầu trời
chụp tối đen là lúc chúng tôi bắt đầu chui, thì bất ngờ có hai nguời đợi
chui trốn theo. Thật hết sức bất ngờ và không thể nào từ chối đuợc nên
chúng tôi đành phải lo bảo bọc nhau cùng trốn. Bình chui ra truớc là để
cắt kẻm gai rồi đến tôi chui kế, tiếp theo là hai nguời trốn chui theo
và Thu là nguời chui sau cùng.
Sau khi chui ra khỏi lớp hàng rào
tre thì gặp lớp hàng rào kẻm gai thứ nhứt. Nhưng phía duới lớp hàng rào
kẻm gai này là rãnh thoát nuớc với đất bùn xình hôi thúi, nên chui lòn
qua đuợc mà khỏi phải cắt. Đến lớp hàng rào kẻm gai thứ hai thì Bình bắt
đầu cắt. Hàng rào kẻm gai của VC rào thì họ có quá nhiều kinh nghiệm
cho nên họ cho rào rất kỹ. Họ bắt phải đào một cái rảnh sâu xuống đất
rồi mới trồng cột sắt lên và rào kẻm gai ngay từ phía duới rào lên, rồi
lấp đất lại, nên không có cách nào vén lên để chui lòn qua đuợc, mà chỉ
có cách duy nhứt là phải cắt thì mới chui ra đuợc. Mà cái kềm cắt kẻm
gai của Bình biến chế nên không cắt dễ dàng nhanh chóng đuợc. Khi đang
nằm chờ trong đám cỏ tranh giữa mấy lớp hàng rào với quần áo đầy bùn xìn
hôi thúi, tôi nhìn lên bầu trời đầy sao, cảm thấy như bình tâm chấp
nhận những gì đến sẽ đến, vì không còn cách nào hơn để lựa chọn đuợc
nữa.
Bình cắt xong hàng rào này cũng
mất 5 phút mới qua đuợc và còn một lớp sau cùng cũng mất 5 phút nữa. Và
cuối cùng chúng tôi chui qua đuợc hết và phải bò thật nhanh, chỉ dùng
cùi chỏ và đầu gối bò thật sát mặt đất như bò hỏa lực, vuợt thật nhanh
qua khoảng đất trống, rồi truờn mình xuống suối. Lúc đó tôi có cảm giác
như tim tôi đập quá mạnh như muốn vỡ lồng ngực. Tiếng thở dồn dập hổn
hển mà tôi nghe rất rõ, và gợn lên sóng nuớc khi ngâm mình trong nước để
lội qua suối.
Qua bên kia bờ suối chúng tôi phải bám
theo rể cây để leo lên vì lòng suối sâu hẩm. Lên khỏi suối là băng mình
qua đám rừng tre, rồi băng qua con đuờng mòn. Con đuờng mòn này đi ra
chuồng bò nên chúng tôi phải tránh xa nơi đây gấp vì sợ có nguời lui
tới. Bất ngờ Thu bị lọt xuống một hố sâu có lẽ là hố rác, tụi tôi phụ
nhau kéo Thu lên. Vừa lên xong là đâm đầu chạy vô phía rừng rậm.
Không bao lâu sau, bỗng nghe tiếng
súng đại liên từ các chòi canh nỗ ran trời và sau đó là những tiếng
quát tháo hò hét của đám công an chạy túa ra về phía chúng tôi, càng lúc
nghe càng gần. Tiếng lên đạn súng AK47 nghe rớp rớp, tiếng hò hét vang
động khắp nơi, tiếng chửi rủa hăm dọa “địt mẹ ra đi không tao bắn chết mẹ hết bây giờ”,
nghe rất gần ở ngoài con đuờng mòn mà chúng tôi vừa mới chạy qua. Vì
vậy chúng tôi hết đuờng chạy, sợ chạy sẽ gây ra tiếng động dễ bị lộ, nên
5 đứa tụi tôi đành phải chui vô một bụi rậm, nằm rút trong đó. Sau này
được biết là sau khi chúng tôi chui ra khỏi hàng rào, thì lại có nguời
chui trốn theo, nên bị phát giác bị bắt và bị đánh chết tại hàng rào và
họ liền truy đuỗi theo để bắt chúng tôi.
Chúng tôi cố nằm yên không động
đậy. Một lúc sau nghe tiếng máy điện chạy trở lại và nghe tiếng lào xào ở
trong trại, chắc là VC đang ra lệnh tập hợp điểm danh. Một hồi lâu sau
thấy yên tịnh, không hiểu là họ vẫn còn lục soát hay ngồi núp rình đâu
đó hay là đã đi chổ khác. Nhưng trong lúc đó chúng tôi quyết định là
phải bò đi vì không thể chần chờ ở đây lâu đuợc.
Chúng tôi 5 đứa bắt đầu bò đi thật
chậm, hai tay rồi lại hai chân, đưa lên đặt xuống thật nhẹ nhàng, nếu
lở có một tiếng động nhỏ như tiếng lá cây kêu sột soạt hay một tiếng
cành cây gãy là ngưng lại ngay nghe ngóng rồi mới bò tiếp. Bò đuợc một
lúc lâu chừng một tiếng đồng hồ, tôi nghi là chưa đi đuợc bao nhiêu,
chân tôi bị đứt ngang ở ống quyển máu ra ướt xuống tới vớ, tôi rờ thấy
ướt mới biết, nhưng cũng chẳng thấy đau đớn gì. Sau đó chúng tôi bắt đầu
đứng dậy để đi cho nhanh ra khỏi chổ này, nhưng vẫn đi hết sức thật cẩn
thận, buớc đi thật nhẹ nhàng im lặng. Tôi lấy thẳng huớng Nam mà đi, đi
ngược với huớng Bắc là hướng qua biên giới. Chúng tôi giữ đúng hướng,
không đi theo đuờng mòn hay chổ trống, bất kể là băng qua các đám ôrô
duới suối hay bụi lùm gai góc. Và càng lúc nghe tiếng máy điện ở phía
sau lưng càng nhỏ dần.
Khi đó nghe có tiếng xe molotova,
loại xe chở quân của VC, chạy đổ ra tứ phía. Chúng tôi phải đi chậm lại,
sửa soạn đồ đạc cho thật gọn gàng, tuyệt đối không đuợc gây tiếng động
và phải quan sát cho thật kỹ. Mỗi nguời nhìn một huớng, khi đến chổ
trống hay gặp đuờng mòn là dừng lại lủi ngay vô bụi rậm gần nhứt rồi từ
từ quan sát sau. Có nhiều lúc gặp họ đang đi bằng xe đạp, chạy ngang qua
rất gần mà họ không thấy. Mỗi khi muốn băng qua đường mòn hay trảng
trống, chúng tôi dừng lại nghe ngóng quan sát rất kỹ rồi mới chạy nhanh
qua từng nguời một. Bỗng đâu có một tốp nguời Thuợng, vợ chồng con cái
vừa đi vừa nói chuyện lào xào, nên chúng tôi lủi tránh kịp thời.
Lúc trời sáng hẳn chúng tôi đổi
huớng đi về phía Đông tức là huớng ra quốc lộ 13. Đi trong rừng hoang
vắng nhưng thỉnh thoảng nghe có tiếng đốn cây chặt củi, chúng tôi phải
tránh xa ra. Đi tới chiều thì gặp con đường lộ đá đỏ, đó là đường vô
Minh Thạnh. Chúng tôi chuẫn bị kỹ rồi băng qua đường cho thật nhanh và
lủi vô sâu trong rừng một khoảng xa rồi dừng lại nghỉ. Chúng tôi lựa chổ
kín đáo để dừng lại nghỉ, bởi vì từ đêm tới giờ gần một ngày tròn đã
đem hết sức lực để cố vuợt thoát xa vùng nguy hiểm, nên bây giờ thấy
thấm mệt, nhứt là vấn đề nước uống rất là khan hiếm. Tôi mang theo lon
guigoz đựng nuớc uống nhưng đã bị đỗ mất hết vì nắp đậy của lon guigoz
không kín chắc, giờ thấy khát rát cỗ họng. May sao Bình tìm đuợc một
giếng nuớc bỏ hoang, cỏ mọc um tùm, nhìn xuống giếng tối om không thấy
nuớc, nhung khi thòng lon guigoz xuống, múc lên đuợc những lon nuớc thật
trong veo, uống thật ngon thật đã, nhờ đó chúng tôi ăn mì gói với nuớc
lạnh. Xong rồi lấy thêm đầy nuớc rồi đi ngay, tiếp tục lấy hướng Đông để
ra Quốc lộ 13.
Trời bắt đầu tối, nhưng khi tiếp
tục đi thì nghe có nhiều tiếng súng trong rừng, chắc có lẻ là họ đi săn,
mà cũng có thể là bọn công an, vì vậy chúng tôi phải dừng lại để tìm
cách lẫn tránh. Chúng tôi ra giữa đám trảng tranh lớn cao quá ngang đầu,
vạch đuờng ra ở giữa đám tranh, trải một tấm nylon để nằm nghỉ lưng và
canh chừng mọi động tĩnh chung quanh. Nếu có nguời đi tới thì chúng tôi
sẽ thấy dễ dàng để tìm đường lẫn tránh, nhưng nguợc lại họ sẽ không thấy
chúng tôi đuợc vì tranh cao quá khỏi đầu. Khi đó hỏi chuyện nhau mới
biết tên hai nguời đi chui theo, đó là Tuờng phi công phản lực A37 và
một nguời nữa tên là Thạch, hình như là nguời Việt gốc Hoa, tôi không
biết đơn vị, cả hai anh đều mang dép nên rất khó đi.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi tiếp
tục lên đuờng sau khi xóa mọi dấu vết. Khi đi thỉnh thoảng gặp các bẩy
của nguời Thuợng rất là nguy hiểm, như bẩy cò ke, nếu vuớng chân vào thì
cần bật sẽ bung lên rất là mạnh, có thể làm bị thương, hay bẩy bắn tên
khi đụng vào cần bật thì bao nhiêu mủi tên tẫm thuốc độc sẽ bắn xuống.
Vì vậy khi thấy khả nghi là phải dừng lại xem xét cho thật kỹ rồi tránh
xa ra. Chúng tôi rất khát nuớc vì đi cả ngày mồ hôi ra nhiều mà không có
miếng nuớc uống nên khát dữ lắm. Gặp một cây nói là trái gấm, Bình leo
lên hái xuống ăn thử, vừa ngứa miệng, vừa khát nước thêm. Có lần gặp
được nước đọng trong các lằn bánh xe bò và trên những lá cây khô còn
đọng nuớc của những trận mưa truớc, chúng tôi góp nhặt lại hớp những
giọt nước đó cho đở khát.
Đến chiều thì trong lúc đang đi
bất chợt gặp một em bé trai độ 11, 12 tuổi đang lang thang trong rừng.
Chúng tôi giả dạng như là cán bộ đi khảo sát địa chất và hỏi em bé ở đâu
có suối, thì em bé đó chỉ về huớng truớc mặt, đi thêm vài chục thuớc là
thấy suối, một con suối rất lớn. Nhìn ở phía xa kia là một khu rừng đã
đuợc phát quang và có các cây to bị đốt cháy nám đen, một đám nguời đang
cuốc đất làm rẩy, chắc là dân vùng kinh tế mới. Chúng tôi lội xuống
suối uống một bụng nước thật no nê. Sau đó chúng tôi tìm chổ bụi lùm kín
đáo để nấu cơm, nấu bằng lon guigoz, hai đứa thay phiên nhau quạt để
khói đừng bốc lên cao. Chúng tôi ăn bửa cơm này thật là ngon, ăn cơm
nóng với bột ngọt trong gói mì.
Sau khi ăn xong, trời đã xế chiều,
chúng tôi thấy đoàn nguời làm rẩy đi về nhà đi theo hướng Đông, như vậy
là ra Quốc lộ 13, nên chúng tôi đợi cho họ đi hết rồi mới men theo con
đuờng mòn đó để đi cho nhanh. Đi độ chừng một tiếng đồng hồ thì ra tới
ấp, tôi đoán chừng là vùng Tân Khai hay Tàu Ô, nằm cạnh Quốc lộ 13. Thấp
thoáng nhìn từ xa thì thấy có lớp hàng rào tre bao bọc, và hình như có
cổng ra vào, giống nhu một trại tập trung, nên chúng tôi không dám đến
gần và cũng không muốn vô đó làm gì.
Sau khi trời xụp tối thì chúng tôi
tiếp tục đi, chúng tôi dự định đi trong bìa rừng theo đuờng rầy xe lửa
Sài Gòn – Lộc Ninh nằm song song với Quốc lộ 13 để đi, dự định sẽ đi qua
khỏi quận Chơn Thành, rồi mới ra đuờng đón xe. Riêng hai nguời trốn
theo là Tuờng và Thạch thì không dám đi nữa, mà họ có cho địa chỉ nếu ai
về đuợc đến Sài Gòn thì nhắn dùm gia đinh họ lên đón. Chúng tôi ba đứa
đi lần mò trong đêm và vì trời tối quá nên không đi đuợc bao xa, mà đành
phải dừng lại nghỉ qua đêm.
Sáng sớm hôm sau lên đuờng đi
tiếp, đi cho đến trưa thì dừng lại nghỉ bên cạnh một cái ao nhỏ xung
quanh có cây cối um tùm, dễ ẩn náo để nấu cơm ăn. Xong rồi lại đi tiếp,
đến chiều chạng vạng tối thì đến một cái ấp khác, một xóm nhà lô nhô
ngoài gần quốc lộ, chúng tôi ở bìa rừng trốn trong hầm hố cũ đuợc che
phủ bỡi những lùm tre rất kín đáo. Buổi chiều dân trong làng đi lao động
về, họ đi ngang qua khá gần chổ chúng tôi đang trốn, tiếng chó sủa dữ
dội nhưng họ không để ý mà chỉ lo đi cho mau về nhà.
Chiều hôm đó nằm nghe tiếng chó
sủa, tiếng trẻ con đùa giởn trên đuờng, nhìn khói lam chiều từ một mái
nhà tranh quyện bay lên không trung mà lòng tôi cảm thấy buồn vô hạn.
Chạnh lòng nhớ đến vợ con, thầm nghĩ đến một mái ấm gia đình bên vợ hiền
con thơ mà tôi uớc mơ đuợc như họ. Được sống đầm ấm trong một căn nhà
tranh vách đất ở một miền thôn quê rừng núi nào đó. Nhưng nghĩ lại thân
phận tôi là một người tù trốn trại, tương lai rất mờ mịt, không biết
ngày mai sẽ ra sao. Một uớc muốn tầm thuờng, đuợc làm một nguời dân bình
thuờng để sống mà lo cho gia đinh nuôi vợ nuôi con cũng không đuợc. Tôi
buồn cho thân phận bơ vơ lạc lõng của tôi trong cái xã hội mới này.
Hoàn cảnh của tôi thật đúng với câu “nước mất nhà tan, gia đình ly tán”.
Đêm đó chúng tôi khát nước vô
cùng, cồn cào lên cổ họng. Bình với ý định lẻn vô nhà dân để xin nuớc
uống, nhưng tôi với Thu cản lại, vì bao công trình giờ rủi ro vô gặp
phải nhà của công an thì nguy khốn, đành chịu nhịn khát qua đêm. Nhưng
không ngờ đến khoảng nửa đêm thì trời đỗ xuống một trận mưa thật lớn.
Chúng tôi mừng quá lấy tấm nylon ra căng để hứng nuớc uống. Uống no bụng
xong rồi, đỗ đầy vô lon guigoz mà trời vẫn tiếp tục mưa càng lúc càng
lớn. Chúng tôi bị lạnh quá phải ôm lấy nhau trên đầu phủ tấm nylon và
mỗi đứa phải lo ôm thật chặt bộ quần áo tốt ở trong bọc nylon, ôm kỹ ở
truớc ngực để giử cho khô. Trận mua này thật lớn thật lâu sau cùng rồi
cũng dứt hẳn. Vì không thể đi tiếp trong rừng cho đến quân Chơn Thành,
vì đuờng còn xa mà đường rầy xe lửa thì không còn nguyên như truớc nữa,
mà chỉ còn là những đám rừng tre che phủ um tùm rất là khó đi, chỉ có
thể chui lòn duới đám tre gai, cho nên chúng tôi quyết định là sẽ chia
tay nhau ở đây, phân tán ra mỗi nguời tự tìm cách để đi về Sài Gòn rồi
sẽ gặp lại nhau sau.
Trời hừng sáng chúng tôi thay bộ
đồ thật tốt thật tươm tất, đồ đạc còn lại đem chôn dấu trong bụi, xong
chờ cho đến khi nghe có tiếng xe chạy là lần luợt ra đuờng, lựa khoảng
trống giửa hai nhà mà ra đón xe. Bình lên đuờng trước tiên, một lúc sau
thì đến Thu, và tôi là nguời ra đuờng sau cùng. Khi buớc ra quốc lộ 13
tôi lấy bình tỉnh đi men theo bên đường chờ đón xe. Tôi không thấy Bình
đâu hết mà chỉ thấy Thu đang đi phía truớc tôi một khoảng xa. Có chiếc
xe Lam (xe ba bánh chở hành khách hiệu Lambretta) chạy trờ tới tôi liền
đón để đi, vì xe đã đầy nguời nên tôi phải đeo theo xe đứng ở phía sau.
Thu cũng lên đuợc chiếc xe đi truớc tôi. Xe chạy qua cầu Tàu Ô và như
vậy là đêm qua chúng tôi đã ngủ ở giửa khoảng Tàu Ô – Tân Khai. Trước
kia, đây là đoạn đuờng nguy hiểm nhứt của quốc lộ máu mang số 13 và cũng
chính nơi đây đã xảy ra những trận chiến vô cùng ác liệt, mà dấu vết
các hầm hố còn lại rất nhiều, dọc theo bìa rừng trông ra quốc lộ.
Khi xe vô quận lỵ Chơn Thành tôi
xuống xe ở đầu ấp Chơn Thành 2 để đi bộ vô, vì sợ vô tới bến xe sẽ gặp
công an. Đi bộ dọc theo con đuờng vào quận lỵ, tôi nhớ lại các nơi mà
ngày xua quen biết như Trại cưa Lê Quang, Trại cưa Mai Chấn Hung, Lò
than ông Năm Thãnh, sau này ông Năm Thãnh cũng lập thêm trại cưa. Đi gần
đến chợ là đến bến xe và tại ngả tư đường đi Đồng Xoài có một đồn cảnh
sát hồi xưa, bây giờ là đồn công an Việt Cộng. Tôi dự định đi bộ ra khỏi
quận lỵ rồi mới đón xe để đi Bình Dương. Tôi đi ngang qua dãy phố chợ
mà ngày xua có các tiệm ăn như Nghĩa Thành, Bạch Tuyết, nổi tiếng với
món canh chua cá lóc, cá kho tộ. Đi ngang qua ngôi chùa, qua cây cầu là
gần đến đầu quận lỵ. Tôi nhìn thấy Thu đang đi phía truớc bỗng dưng đổi
huớng qua trái tấp vô một quán nước. Tôi nhìn kỹ về phía truớc phía bên
phải thì thấy có một trạm kiểm soát nên tôi cũng đổi hướng qua trái tấp
vô một quán nuớc. Tôi nhớ mài mại hình nhu đây là quán của bà Năm Chích,
có cô con gái ra tiếp. Tôi kêu một ly cà phê, ngồi uống để quan sát coi
trạm kiểm soát đó nó hoạt động như thế nào. Tôi thấy rõ hai thằng công
an coi tù ở trong trại ra đây chận xét xe để nhìn mặt bắt chúng tôi, hai
tên này đứng bên cạnh trạm kiểm soát tài nguyên. Mỗi khi xe đến đó, tài
xế vô trình giấy tờ cho trạm kiểm soát tài nguyên ở bên trong, thì hai
tên công an đứng bên ngoài đi ra lục soát xe.
Tôi đoán chắc là nó sẽ bố trí chận
xét ở đây để bắt tù trốn trại, vì đây là quân lỵ gần nhất, mà muốn ra
khỏi quận thì phải đi ngang qua trạm kiểm soát này. Nếu đi bằng xe đạp,
xe thồ, mặc đồ như nguời đi làm cây làm củi trong rừng thì mới lọt qua
đuợc. Còn nếu bây giờ băng vô trong rừng để đi bọc qua thì cũng sợ gặp
phải nguời lạ mặt họ dể nghi ngờ, vì mình mặc đồ sạch sẽ tươm tất quá.
Tôi còn đang phân vân không biết phải làm cách nào để qua khỏi trạm kiểm
soát này, thì thấy Thu đi nguợc trở lại, ngang qua chổ tôi. Thu trở lại
bến xe để đón xe đi, còn Bình thì không còn thấy tâm dạng đâu hết, chắc
là đã đi thoát rồi.
Tôi ngồi chờ một hồi thì thấy
chiếc xe lô chạy trờ tới, tôi nhìn thấy Thu ngồi ở băng sau cùng. Xe tới
trạm kiểm soát thì ngừng lại, trong khi nguời tài xế vô trình giấy tờ
thì một tên công an đi ra nhìn vào xe, một lúc sau thì tài xế trở ra và
nó cho xe chạy đi. Tôi mừng cho Thu đã thoát nạn, giờ đây chỉ còn lại
một mình tôi, tôi không còn biết cách nào khác hơn là trở lại bến xe để
đón xe đi. Đây là chổ nguy hiểm nhứt mà tôi cố tránh nhưng không đuợc
nên đành phải liều mạng.
Khi vô bến xe thì thấy có một
chiếc xe lô, loại xe nhỏ để chở khách, tôi thấy xe trống trơn chưa có
ai, tôi lên ngồi băng sau cùng. Ngồi một lúc lâu thấy nóng ruột nên mới
hỏi bác tài là xe chừng nào chạy, ông ta nói chờ khách lên đầy thì đi,
mà thuờng là khách ở trong Minh Thạnh ra nhiều. Tôi hơi lo vì khách ở
trong Minh Thạnh ra có thể là công an trong trại ra đi phép. Ngồi một
hồi lâu thì chợt có một tốp người đi buôn than họ lên gần đầy. Bỗng tôi
thấy có hai đứa nhỏ độ hơn muời tuổi tay cầm một con gà, tay xách một
giỏ đồ, tôi liền nhanh miệng kêu hai em bé đó vô ngồi gần bên tôi và tôi
phụ xách dùm đồ, làm như vậy thấy đở trống trải vì có hai em nhỏ che đở
phần nào.
Khi xe chạy tới trạm kiểm soát thì
dừng lại, bác tài vào trình giấy tờ trong trại kiểm soát tài nguyên.
Tôi thấy một thằng công an, đứng bên cạnh trạm kiểm soát, buớc ra để
nhìn mặt nguời trên xe. Nó nhìn vào băng truớc, trên đó có hai nguời
ngồi, tôi nghe tiếng quát tháo của tên công an là hai nguời ngồi đằng
truớc là “tại sao đầu tóc để dài bù sù nhu cao bồi du đảng, đâu đưa giấy tờ coi”.
Sau khi coi xong giấy tờ hai người phía truớc là nó liệng vô xe rồi ra
lệnh cho đi một cách thật oai quyền. Cũng vừa lúc bác tài đã trở ra xe,
bác tài liền rồ ga cho xe chạy đi, mà lòng tôi vui mừng khắp khởi vì vừa
thoát được một trạm kiểm soát thật là vô cùng nguy hiểm.
Xe chạy qua khỏi Tham Rớt, Bầu
Bàn, Bầu Lòng rồi đến quận Bến Cát, ở đây cũng có trạm kiểm soát nhưng
là trạm kiểm soát tài nguyên nên không có gì trở ngại. Xe chạy về tới
Chánh Hiệp Bình Dương, một trạm kiểm soát rất lớn, nơi cửa ngỏ vô thành
phố nên xe đậu nối đuôi nhau rất dài. Chiếc xe tôi đi là xe nhỏ chở than
lậu nên tài xế đã biết cách vô trình giấy tờ và nộp tiền mải lộ là xong
ngay. Xe đi tiếp vô thành phố vào đậu ở bến xe, tôi xuống xe cũng vẫn
còn nắm tay hai em bé vô mua giấy xe để về Sài Gòn, vì hai em bé đó cũng
về Sài Gòn. Tôi thấy người ta sắp thành hàng dài để chờ mua vé xe, tôi
cũng sắp vô hàng chờ đợi. Nhưng khi tôi nhìn kỹ lại thì thấy mỗi nguời
khi mua vé xe đều phải trình ra một thứ giấy tờ gì đó, hình như là giấy
phép đi đuờng hay là giấy căn cuớc, mà trong mình tôi thì không có thứ
giấy tờ nào nên tôi hơi sợ, nên mới nói với hai em nhỏ là cứ sắp hàng để
mua vé về Sài Gòn truớc đi còn tôi thì sẽ đi sau. Tôi bỏ ra ngoài tìm
đường khác để đi, chớ khi mua vé họ hỏi đến giấy tờ là mình không biết
trả lời ra sao, vì trong mình tôi không có thứ giấy tờ nào hết. Tôi vào
quán nước kêu ly nuớc đá chanh vừa uống vừa quan sát để tính kế. Bỗng
chợt thấy xe Honda ôm, tôi liền nghĩ ra phương cách hay nhứt để đi về
Sài Gòn là bằng xe ôm. Tôi dự định là sẽ về nhà của chị Đồ ở Phú Thọ.
Trong những lần đi thăm nuôi, vợ tôi thường đi chung với chị Đồ nên hai
gia đinh rất thân nhau và trước khi trốn trại tôi có dọ hỏi anh Đồ địa
chỉ nhà cho thật kỷ, thật đầy đủ chi tiết đuờng đi nước buớc, làm sao vô
nhà, đi vô ngỏ hẻm nào v.v….Tôi chỉ hỏi chơi chơi chứ không cho anh
biết ý định trốn trại của tôi.
Anh lái xe ôm ra giá đi Sài Gòn là
50 đồng, tôi không có đủ tiền nhưng tôi nói với anh là đưa tôi về đến
nhà tôi lấy tiền rồi trả sau. Sau khi bằng lòng giá cả anh ta mới đi đổ
xăng và trở lại đón tôi. Trên đuờng đi tôi cũng nói thêm với anh là tôi
vừa ở vùng kinh tế mới về, bị mất hết giấy tờ nên nhờ anh chạy làm sao
để tránh các trạm kiểm soát. Anh ta nói là tụi công an nó chỉ xét coi có
buôn đồ lậu, chứ như ông đi mình không, thì không có gì để xét thì đừng
có lo. Tôi nghe mừng trong bụng và trong lúc đi đuờng tôi có hỏi chuyện
thì anh có cho biết hồi truớc anh là lính của Sư đoàn 5 Bộ Binh. Nghe
biết vậy thôi chứ tôi cũng không có hỏi thêm gì về chuyện ngày trước. Xe
chạy qua các trạm kiểm soát Búng, Lái Thiêu rồi Bình Triệu. Thấy xe kẹt
đậu dài dài để chờ xét, còn xe Honda ôm này chạy qua hết mà không bị
hỏi han gì và sau cùng vô Sài Gòn qua ngả cầu cư xá Thanh Đa rồi qua cầu
Phan Thanh Giản và chạy trên đường Phan Thanh Giản để về Phú Thọ.
Nhìn quang cảnh thành phố Sài Gòn
sau 5 năm trở lại, tôi cảm thấy như bơ vơ lạc lỏng, như lạc vào một thế
giới nào xa lạ lắm. Đây không phải là thủ đô Sài Gòn năm xua, một thời
đã từng đuợc mệnh danh là một “Hòn Ngọc Viễn Đông”. Nay tôi
thấy trên đuờng toàn là xe đạp, mà nguời nguời trông lam lũ tả tơi,
không cuời không nói, với dáng vẻ buồn thiu ảm đạm, thật đúng với câu“nguời buồn mà cảnh có vui đâu bao giờ”.
Khi đến Phú Thọ, xe Honda chạy vào
con hẻm nhỏ, một số con nít chạy theo. Khi xe vô đúng số nhà mà tôi đã
học thuộc lòng, tôi gỏ cửa và chị Đồ ra mở cửa. Khi thấy tôi chị buột
miệng la lên: “Ủa anh Thạch mới đuợc thả về, còn ông Đồ của tôi đâu”.
Tôi lật đật nói nhanh là tôi mới đuợc thả về và xin muợn chị 50 đồng để
trả tiền xe. Chị vô lấy tiền cho mượn ngay để trả tiền xe. Khi xe đi
rồi và đám con nít đa tản đi hết rồi thì tôi mới nói thiệt với chị là
tôi trốn trại và nhờ chị về báo tin cho vợ tôi hay. Chị hốt hoảng cho
biết là mới vừa tuần truớc đây thằng em trai của chị vừa mới vuợt biên
đã đi thoát được. Nhà chị đang bị công an phường khóm điều tra theo dỏi,
cho nên chị không dám chứa tôi trong nhà, mà bảo tôi ra ngoài đuờng đón
xe autobus để ra bến xe Xa Cảng miền Tây, ở Phú Lâm, rồi sẽ tính sau.
Truớc khi đi tôi còn hỏi muợn chị đôi giày, vì đôi giày tôi đang đi là
loại giày đi rừng nên đi trong thành phố coi không tiện. Chị cho tôi
muợn đôi giày sandal và còn đôi giày đi rừng của tôi thì chị nói là chị
sẽ đem lên cho anh Đồ trong lần thăm nuôi tới.
Tôi ra khỏi hẻm ra ngoài đuờng thì
thấy có một quán hủ tiếu, tôi liền tấp vô ăn một tô hủ tiếu, uống một
ly cà phê sửa, rồi mới ra đón xe autobus để đi ra Xa Cảng miền Tây. Khi
ra đến bến xe Xa Cảng miền Tây, tôi thấy cả một rừng nguời hỗn độn la
liệt khắp nơi. Họ trải chiếu, trải tấm nylon hay kê tấm ván tùm lum tứ
tung không theo một lề lối nào cả. Hỏi ra mới biết đây là những nguời bỏ
vùng kinh tế mới trở về, nhà cửa bị tịch thu không nơi nương tựa đành
phải sống lang thang đầu đuờng xó chợ bến xe. Sau khi thấy cảnh hổn độn
này tôi nghĩ thầm là mình có thể trà trộn để ngủ tạm qua đêm ở đây.
Trong khi đó thì chị Đồ đạp xe đạp
từ Phú Thọ vô Gia Định để báo tin cho vợ tôi biết. Sau này gia đinh kể
lại là khi chị Đồ vào nhà, chị rất lo sợ có nguời theo dõi, nên chị kéo
vợ tôi ra phía sau nhà, không cho mấy đứa con tôi lại gần, rồi chị mới
nói cho vợ tôi hay là tôi đã trốn trại. Tôi đang ngồi uống nuớc đá chanh
ở xe nuớc đá và định chổ ngủ qua đêm, thì bỗng thấy chị Đồ đạp xe đạp
ra tới. Chị đưa cho tôi 50 đồng và một giấy cử tri của vợ tôi gởi và căn
dặn tôi sáng mai ra mua vé xe đò để về Mỷ Tho.
Sáng sớm hôm sau trước khi ra bến
xe tôi đi tìm nhà của Thạch, là một trong hai nguời trốn chui theo.
Thạch và Tường thì còn ở lại trong rừng và có dặn là nếu ai có thoát về
đuợc Sài Gòn thì báo tin cho gia đình họ biết tin, để tìm cách lên đón.
Địa chỉ của Thạch thì tôi nhớ lờ mờ là ở gần Phú Lâm nên tôi sẳn dịp ghé
qua báo tin. Lúc đó trời còn lờ mờ chưa sáng hẳn, đuờng vắng vẻ. Khi đi
ngang qua trạm xe chửa lửa có vài tên công an đang đứng nói chuyện ở
phía truớc, tôi cố giử bình tỉnh khi đi ngang qua. Sau cùng tôi tìm đuợc
nhà của Thạch, tôi gỏ cửa một hồi thì có nguời ra mở cửa nhưng với dáng
vẻ bực bội vì tôi đánh thức họ quá sớm. Tôi hỏi có phải là nhà của
Thạch không, thì họ không trả lời mà đóng ập cửa lại làm tôi ngần ngừ
một lúc, vì tiếc là không báo tin cho gia đinh Thạch được. Tôi cũng
không biết là có đúng nhà không, hay là họ sợ không dám tiếp tôi. Cho
đến sau này tôi cũng không biết tin tức gì về hai nguời trốn chui theo,
có thoát đuợc không và bây giờ ra sao.
Tôi trở ra bến xe ngồi xếp hàng
chờ để mua vé xe về Mỷ Tho, trong túi có 50 đồng và thẻ cử tri nên thấy
hơi yên tâm. Một hàng rất dài ngồi chờ mua vé xe rồi từ từ nhích lần
lên. Tôi ngồi chòm hỏm hai tay bó gối gục đầu rồi thiếp đi lúc nào không
hay. Bỗng đâu có nguời vỗ vai kêu tên tôi, tôi giật mình nhìn lên thì
thấy chị Đồ, chị bảo tôi vô quán nước ở bên kia đuờng để gặp bà xã tôi.
Vừa mừng vừa lo, chỉ sợ công an theo dõi vợ tôi để đón bắt tôi nên tôi
hơi luỡng lự. Chị Đồ vô đứng thế chổ tôi để mua vé xe.
Tôi vô quán để gặp bà xã tôi, vợ
tôi đã kêu đủ thứ đồ ăn nào hủ tiếu, bánh bao, xiếu mại v.v…. Bà xã tôi
kêu tôi ăn đi ăn đi. Tôi hỏi coi có ai biết hay theo dõi gì không, thì
thấy không có dấu hiệu gì. Ba đứa con tôi đang ở nhà chưa hay biết gì về
chuyện này. Sau này kể lại mới biết là chúng nó đói khổ lắm, đâu có
được ăn hủ tiếu bánh bao như thế này. Từ ngày tôi đi tù tới giờ gia đình
suy sụp, có bao giờ dám ăn các món cao lương mỹ vị này đâu và tôi cũng
quên hỏi mời vợ tôi cùng ăn, bà xã tôi cứ kêu tôi ăn đi ăn đi. Phần thì
lo sợ công an nó theo dõi, phần thì không biết là về Mỷ Tho rồi sẽ làm
gì, nên tôi cố nhét cho đầy bụng rồi đi liền. Tôi dặn vợ tôi là đừng có
xuống Mỷ Tho, mà nên ở nhà lo cho mấy đứa con còn nhỏ dại, đừng để bị
nguy hiểm cho cả hai, rồi không ai lo cho các con.
Tôi trở ra chổ mua vé xe thì chị
Đồ đã mua vé xong xuôi và chị còn cẫn thận mua cho tôi tờ báo Nhân dân,
chị bảo lên xe đọc báo này nguời ta tưởng là cán bộ. Tôi lên xe ngồi gần
băng phía sau. Xe chạy qua hết các trạm kiểm soát một cách dễ dàng vì ở
mỗi trạm bác tài đều biết thủ tục đầu tiên, là tiền đâu. Qua Bình
Chánh, Bến Lức, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương rồi vô thành
phố Mỹ Tho.
Xe vô đến bến, tôi xuống xe và vô
tìm đứa em gái tôi. Vợ tôi có cho biết là em gái tôi bây giờ làm ở tổ
hợp may mặc phuờng 4 ở bến xe này. Mới vừa vô gặp mặt em tôi, nó mừng rỡ
rồi la lớn “Ủa anh Tư mới đuợc thả về”. Tôi hơi bối rối vì sát
bên cạnh tiệm may là đồn công an phường 4, có một số công an đang đứng
gần đó sợ nó nghe được. Tôi giả bộ như thiệt nói một hơi là anh mới đuợc
thả về bây giờ em có rảnh ra quán uống nuớc. Em tôi lật đật xin phép bà
hội truởng hợp tác xã rồi đi liền. Ra tới quán nuớc tôi mới nói thiệt
với em tôi là tôi trốn trại. Em tôi giật mình mặt tái xanh vì quá bất
ngờ. Tôi dặn dò em tôi về nhà cho má hay và coi chung quanh có ai không
rồi cho anh biết để anh về nhà. Em tôi đạp xe đạp chạy về báo tin xong
trở lại làm việc, còn tôi một mình đi bộ về nhà. Má tôi đã biết truớc
nên đã mở cửa sẳn chờ. Khi vô nhà tôi đi thật nhanh và đi thẳng ra phía
sau nhà vì sợ lối xóm nhìn thấy.
Sau đó em tôi đi làm về có mua cho
tôi một dĩa cơm suờn và hôm sau là cơm tấm bì chả và mua hủ tiếu bánh
bao v.v…. toàn là các món ăn ngon đắt tiền mà tôi cũng quên hỏi là em
tôi đi may lương tháng bao nhiêu. Má tôi thì già yếu không có làm gì ra
tiền. Hồi truớc Má tôi đi may đồ quần áo ở trong nhà thương Mỷ Tho,
nhưng đã nghỉ lâu rồi. Sau này mới biết là ở nhà không có đủ tiền để mua
gạo, đôi khi còn phải bán máu để đổi lấy mấy bát cơm, thì nói gì đến
thức ăn sang trọng. Thì ra em tôi chạy qua Chợ Củ để xin Cô tôi. Cô Ba
tôi có mở tiệm ăn, Cô rất thương tôi, vì vậy khi hay tin tôi về, cô tôi
liền gởi cơm và đồ ăn rất ngon qua cho tôi.
Ở đây đuợc mấy ngày thì vợ tôi
xuống thăm tôi làm cho tôi càng thêm lo sợ, vì sợ công an theo dõi. Tôi
mới tính tìm đuờng vuợt biên chớ ở đây lâu thế nào cũng bị bại lộ. Mà
tìm đuờng dây để vượt biên không phải là chuyện dễ dàng. Phần thì không
có tiền, phần thì không dám đi lại nên cũng không biết cách nào để vuợt
biên, mà tội vuợt biên lúc đó bị coi như là tội phản quốc, chạy theo đế
quốc, bọn công an biên phòng bắt đuợc là chỉ có chết. Hồi đó đã có xảy
ra những cảnh vuợt biên bị đổ bể, bị công an tàn sát như ở cầu Chữ Y Sài
Gòn, như ở bãi biển Vũng Tàu, nhu ở kinh Chợ Gạo hay ở cửa biển Gò Công
v.v…. Họ tàn sát không nương tay, mặc cho tiếng khóc trẻ thơ, hay những
lời van xin lạy lục, của những nguời khốn khổ cùng đuờng. Tôi dự định
nếu không tìm được đuờng đi bằng ghe tàu, thì như đã hẹn với Thu và
Bình, là sau một tháng chúng tôi sẽ gặp lại nhau, để bàn tính để đi bằng
đuờng bộ.
Vợ tôi lại xuống một lần nữa và
lần này có cả đứa con gái đầu lòng của tôi. Coi như vậy là tôi ở đây
đuợc một tuần lể và vợ tôi đem tiền xuống lần này là để mua vé xe cho
tôi đi Cà Mau vào sáng sớm mai, vì hy vọng ở Cà Mau dễ kiếm đuờng vượt
biên hơn. Bất ngờ ngay buổi chiều hôm đó vào khoảng 7 giờ, thì có một
người anh bà con cô cậu, đi cùng với một nguời bạn, xuống thăm để từ giã
Má tôi, để sáng sớm mai họ lên đường đi Kampuchia, và từ đó sẽ tìm
đuờng vuợt biên, và anh muốn xin địa chỉ của em tôi, hiện đang sống ở
Mỹ, để anh liên lạc khi cần. Thật là một điều quá may mắn cho tôi vì sau
khi anh biết tôi vừa mới trốn về nên anh kéo tôi đi theo luôn.
Thế là phải trở về Sài Gòn ngay
trong đêm nay để sáng sớm mai lên đuờng đi Kampuchia. Tôi từ giã Má tôi
và để đứa con gái đầu lòng ở lại với Bà Nội. Tôi và vợ tôi đi theo Long
và Nghĩa ra đón xe để về Sài Gòn. Tôi ra đi mà lòng buồn vô hạn, rồi
không biết sẽ đi tới đâu trên buớc đuờng bôn ba vô định này. Ở lại Mỷ
Tho thì không được, mà đi qua Kampuchia thì cũng không biết ra sao, thật
là đau lòng truớc cảnh chia tay, rồi đây không biết có còn được gặp lại
nhau. Trong đêm đó hai bà cháu đã tụng niệm suốt đêm để cầu nguyện cho
chuyến đi của tôi được bình an. Trời đã tối lúc đó khoảng 9 giờ đêm nên
không còn xe chạy về Sài Gòn. Chúng tôi đón chiếc xe lôi đạp để đi vô
ngã ba Trung Lương, hy vọng ở đó sẽ có nhiều xe miền Tây lên, dể đón
hơn. Ông xe lôi, đạp không muốn nổi, vì trên xe có tới 4 nguời, nên
chúng tôi phải thay phiên nhau nhảy xuống để đẩy phụ, nhứt là khi lên
dốc cầu Trung An, thì phải nhảy xuống hết rồi qua cầu mới nhảy lên lại.
Vô tới ngã ba Trung Lương là trời
đã tối, nên không còn thấy xe miền Tây nào hết, mà chỉ thấy có một chiếc
xe hàng bị hư máy và nguời tài xế đang sửa chửa. Chúng tôi mon men lại
gần tìm cách làm quen rồi dọ hỏi xin quá giang về Sài Gòn, nhưng ông tài
xế nhìn chúng tôi như nghi kỵ điều gì nên lắc đầu trả lời một cách sẳn
giọng là xe đang hư mà làm sao cho quá giang đuợc, vì vậy chúng tôi lại
lủi thủi đi tiếp. Ở đây có một trạm công an khá lớn để xét xe từ miền
Tây lên, nên có nhiều công an ở đồn bót này, nên trong đêm tối mà đi
lang thang ở đây cũng nguy hiểm lắm. Tình cờ có một chiếc xe lô chạy từ
Mỷ Tho lên huớng về Sài Gòn, chúng tôi mừng quá đón ngoắc lại nhưng xe
không ngừng mà chạy luôn một khoảng, rồi bỗng đâu xe dừng lại và lùi lại
cho chúng tôi quá giang. Bác tài chỉ cho đi quá giang một quãng đuờng
lên đến Tân Hương để đón xe khác mà đi, vì xe này đi về nhà để nghỉ nên
không có đi Sài Gòn.
Trong khi xe đang chạy và qua tài
giao thiệp của anh Long, cũng là lơ xe, nên anh biết nhiều nguời trong
nghề xe đo nên câu chuyện dần dần trở nên thân mật và bác tài dần dần có
cảm tình với chúng tôi. Và sẳn đó anh Long đề nghị bao xe đi Phú Lâm
rồi bận về anh sẽ phụ giúp tìm khách cho chuyến trở về. Vợ tôi móc trong
túi ra đếm còn 200 đồng nên đề nghị bao xe 200 đồng và nhờ anh Long nói
thêm vô, nên sau cùng bác tài chịu đi Phú Lâm với giá 200 đồng. Thật là
hết sức may mắn, chớ nếu tới Tân Hương chưa chắc gì có xe để đi, mà nếu
không lên kịp Sài Gòn trong đêm nay thì ngày mai xe sẽ đi sớm rồi, sẽ
mất đi một dịp may hiếm có ngàn vàng.
Khi xe chạy qua khỏi trạm công an
Tân Huong một quảng, thì gặp một tốp công an ra chận đuờng. Tôi thấy
nguy vì trên xe không có ai khác, chỉ có gia đinh tôi, nên rất khó xoay
sở trà trộn. Tôi có ý dò hỏi bác tài coi tính sao, nhung bác tài cho
biết là xe không có ngừng đâu vì tụi này là tụi chuyên chận xe dọc đuờng
để ăn cuớp, bác tài rất rành về bọn này. Tôi nghe thế cũng thấy mừng
thêm, vì thà là chạy luôn nó có bắn theo cũng khó trúng. Bác tài cho xe
giảm tốc độ rồi khi đến gần bọn chúng thì tống hết ga vuợt nhanh qua,
nên chúng trở tay không kịp, nên xe chạy vuợt qua một cách êm xuôi.
Nhưng tôi lại lo cho trạm kiểm soát kế tiếp sợ tụi nó gọi máy báo lên
chận bắt xe lại thì còn nguy hiểm hơn. Tôi hỏi ý bác tài thì bác tài nói
là tụi nó đâu có máy móc gì đâu mà báo đừng có lo, nên tôi càng yên tâm
tin tuởng bác tài muôn phần. Xe qua khỏi Tân An, Bến Lức, Bình Chánh
rồi vào Phú Lâm một cách êm xuôi.
Sau khi trả tiền xe xong xuôi là
chúng tôi chạy đi ngay vì trời đã tối rồi mà còn phải chạy lo kiếm mượn
tiền để đi. Chúng tôi về nhà của Nghĩa cũng ở gần đó, vợ chồng tôi muợn
chiếc xe đạp để đạp vô Phú Thọ. Vô tới nhà chị Đồ là đúng nửa đêm, giờ
giới nghiêm. Chị Đồ không có sẳn vàng chị rút chiếc nhẩn đang đeo trên
tay 2 chỉ vàng đưa cho tôi mượn đở. Tôi đạp xe đạp chở vợ tôi trở về nhà
của Nghĩa trong lúc đã quá giờ nghiêm nên cũng sợ bị hỏi giấy tờ hay bị
bắt lại thì trể chuyến xe sáng sớm mai đi. Tôi đạp xe lên dốc cầu Minh
Phụng không nỗi, vợ tôi phải xuống xe đẩy phụ qua cầu, nguời của tôi lúc
đó rất là ốm yếu xanh xao.
Về tới nhà Nghĩa, là chúng tôi
phải đi ngay đến chổ đậu xe, để kịp chui vô trong xe sắp xếp truớc khi
trời sáng. Đây là chiếc xe hàng dân sự bị VC trưng dụng để chở chiếu qua
Nam Vang tiếp tế cho bộ đội VC bên Kampuchia. Long là lơ xe của chiếc
xe này nên mới dấu Nghĩa và tôi vô trong đống chiếu mà tài xế không hay
biết gì. Sau khi sắp lại đống chiếu, vạch ra một lổ vừa đủ để hai đứa
tôi chui vô, xong rồi Long mới gát hai cây gỗ đà ngang trên đầu rồi sắp
chiếu phủ kín lên như cũ rất là kín đáo. Chúng tôi đem theo một bình
nước và hai ổ bánh mì với một gói muối.
Ngoài hai chỉ vàng của chị Đồ cho
muợn, vợ tôi đưa luôn chiếc nhẫn cuới đang đeo ở tay đưa cho tôi, như
vậy tôi mang luôn hai chiếc nhẫn cuới. Lúc đó cũng khoảng 3,4 giờ sáng,
vợ tôi và má của Nghĩa cũng vẫn còn ngồi đâu đó để chờ sáng ra xe chạy.
Long ngồi ở ngoài nên có cho tụi tôi biết là vợ tôi và má của Nghĩa khóc
nhiều lắm, vì không biết chúng tôi đi làm sao, vì không ai có tiền hay
có vàng đem theo, không biết rồi sẽ đi đến đâu. Riêng tôi thì tôi quyết
ra đi mặc dầu không biết ra sao, nhưng vẫn còn tốt hơn là ở lại Việt
Nam.
Sáng sớm hôm sau xe rời bến để đi
Nam Vang, nhìn qua khe ván ở sàn xe trời còn lờ mờ nghe tiếng nguời nói
lao xao mới biết là vừa qua khỏi Ngã Tư Bảy Hiền. Khi đến trạm kiểm soát
biên giới thì họ chỉ xét qua loa vì đây là chuyến xe công tác chở đồ
cho bộ đội VC. Xe chạy càng nhanh đống chiếu trên đầu càng đe nặng, vì
cây gỗ chận trên đầu không còn ở nguyên vị trí củ, mà vì sự lúc lắc của
chiếc xe đa làm lệch đi và hai đứa tôi phải đưa lưng chống đở sức nặng
bên trên đè xuống. Tệ hại hơn nữa là dọc đuờng VC đón xe đi quá giang
nên họ ngồi trên đầu chúng tôi. Nghe tiếng họ nói chuyện với nhau thì
biết là VC đang ngồi ở ngay trên đầu mình. Chúng tôi phải rán đưa lưng
ra chịu đựng, vì chỉ sợ nó sụp xuống thì bị lộ ngay, rất là nguy hiểm.
Khi tiểu tiện thì phải đợi lúc xe chạy nhanh rồi mới dám tiểu qua khe hở
của ván sàn xe mà phải tiểu từ từ để bên ngoài không thấy không biết.
Đến chiều thì xe tới nơi đậu vào
một chổ nào đó mà tôi nghe có tiếng nhạc của những bản nhạc ngày xua.
Tôi mừng thầm vì được nghe lại những tiếng hát quen thuộc đầm ấm nồng
nàn tràn đầy kỷ niệm của ngày truớc. Tiếng nhạc hòa lẫn tiếng nguời nói
chuyện lao xao gần bên cạnh xe. Chúng tôi vẫn nằm im trong xe chờ khi
nào có hiệu lệnh của Long thì mới ra đuợc. Một hồi lâu sau khi bên ngoài
hoàn toàn im vắng và khi nghe ba tiếng hiệu lệnh của Long thì chúng tôi
chui ra. Khi nhảy xuống xe, tôi không thể đứng được vì bị ngồi lâu
trong thế co ro nên chân bị tê cứng, mà Long thì thúc hối phải đi khỏi
nơi đây ngay vì sợ tài xế và an ninh đoàn xe họ biết, nên tôi và Nghĩa
phải cố lết đi ra khỏi xe thật xa.
Nhìn chung quanh, đây là một bồn
binh khá lớn ở cuối đại lộ, bên cạnh một sân vận động, xe đậu một đoàn
dài chừng vài chục chiếc, tài xế và lơ xe khá đông, có nhiều xe họ mang
theo cả gia đinh vợ con với đồ đoàn nồi niêu soong chảo, nên tôi thấy
cũng dễ trà trộn ẩn thân. Tối đó tôi và Nghĩa ngủ ở một đám cỏ bên cạnh
đường khoảng giữa đoàn xe và không dám gần xe nào cả vì sợ họ báo với an
ninh đoàn xe.
Ngay tối hôm sau, tôi bán chiếc
nhẩn cuới đuợc 75 đồng Riel, tiền Kampuchia, và nhờ Long môi giới mời
một số tài xế lơ xe ra quán nuớc uống cà phê nghe nhạc, để tìm cách lân
la làm quen gây cảm tình với họ. Tôi và Nghĩa đóng vai lơ xe, bạn với
Long. Vì Nghĩa cũng là lơ xe nên nói chuyện dễ dàng, còn tôi thì cảm
thấy hoàn toàn xa lạ, nên trong các câu giao tiếp tôi thuờng cuời nhiều
hon là nói vì sợ bị bại lộ tông tích.
Ban ngày thì ra chợ Nam Vang, bữa
đầu thì đi bằng xe lôi cho mọi nguời thấy, và vì không biết đường, mấy
lần sau thì đi bộ. Đi ngang qua mấy con đuờng rất đẹp với hai hàng cây
phủ mát bên đuờng, với những ngôi biệt thự sang trọng kiến trúc theo
kiểu villa của Pháp, giống nhu khu đường Duy Tân, Yên Đổ ở bên xứ mình.
Mấy ngôi nhà sang trọng đó bây giờ là dinh của VC, treo cờ đỏ sao vàng
và có lính canh truớc cổng. Mỗi khi đi ngang qua thấy hơi chùng chân vì
sợ nó hỏi giấy tờ bất tử.
Uống nuớc phong tên ở gần đó, ăn
cơm thì mua của mấy gánh bán hàng rong, cơm một dĩa 10 đồng Riel. Ra
ngoài chợ thì đi lòng vòng coi nhìn cái này cái nọ cho hết thì giờ,
thỉnh thoảng công an chạy ruợt đuổi bắt người ở trong chợ, làm mình cũng
sợ giật mình. Tôi thì có ý định tìm mua một quyển sách địa lý để coi
bản đồ vùng Battambang, Siem Rệp, vùng biên giới Thái Lan. Họ bày bán
sách cũ rất nhiều nhưng đều là tiếng Miên. Tôi lựa xem mấy cuốn sách có
hình bản đồ rồi mua một quyển. Nhưng vì tôi không biết tiếng Miên mà mua
sách Miên trong đó có hình bản đồ địa lý, nên họ có ý nghi ngờ. Mua
xong tôi lật đật đi bộ về chổ đậu xe vì sợ họ báo với công an chợ. Sau
khi nghiên cứu bản đồ để biết địa thế, đường đi nuớc buớc, cũng như
khoảng cách bao xa. Tôi cố học thuộc lòng vùng Battambang, Siem Rep,
vùng gần biên giới Thái Lan, rồi xé bỏ quyển sách đó ngay.
Lúc bấy giờ bên Miên hoàn toàn do
VC kiểm soát, thỉnh thoảng có mấy tên lính Miên trẻ mặt còn non choẹt,
mang khẩu AK dài đụng tới đất. Ở đây họ mắc loa phóng thanh cứ sáng sớm
và chiều tối là nghe tiếng nhạc Miên, một âm điệu đều đều nghe buồn não
ruột, nghe nhớ nhà, nhớ vợ nhớ con, nhớ quê hương mình vô cùng. Cuộc đời
tôi cũng không ngờ lại lưu lạc đến noi đây, xứ lạ quê nguời, rồi cũng
không biết ngày mai sẽ ra sao. Nghĩ lại thân phận mình, lêu bêu bình
bồng, mà cảm thấy buồn vô hạn.
Tôi lân la mấy quán nuớc làm quen
hỏi chuyện để tìm đuờng đi, thì đuợc biết là xe lửa chạy từ Nam Vang lên
Battambang đã bị giật mìn không còn chạy nữa, bây giờ chỉ còn đuờng xe,
nhưng VC đặt rất nhiều nút chận kiểm soát để chận bắt đào binh, nên rất
khó mà lọt qua đuợc. Tôi ra phía đầu thành phố đường đi về huớng
Battambang để xem trạm kiểm soát họ xét ra sao. Tôi thấy rất ít xe đi về
phía đó và họ kiểm soát rất kỹ. Xe thì không thấy loại xe đò chở khách,
mà toàn là xe chở hàng hay xe quân sự. Vả lại tôi không biết tiếng Miên
nên rất ít hy vọng thoát qua đuợc, giá mà còn xe lửa thì tốt hơn.
Ở đây đuợc ba ngày thì nghe tin đoàn xe
được lệnh đi xuống hải cảng Kompong Som tức là Sihanoukville. Tôi không
biết hải cảng này ra sao, nhưng nghe nói ở đó có tàu ngoại quốc ra vào.
Trước đó tôi có dọ hỏi đuờng lên Battambang, thì họ nói là phải có
nguời dẫn đuờng và phải trả bằng vàng, ít nhứt là hai lượng. Trong mình
tôi chỉ đuợc hai chỉ vàng thì làm sao mà đi và hơn nữa chúng tôi không
biết tiếng Miên nên rất khó khăn, thành ra tôi đã bỏ ý định đi lên
Battambang. Bây giờ nghe tin đi xuống hải cảng Kampong Som thì tôi thấy
cứ đi đại xuống đó rồi sẽ tính sau, dầu sao ở hải cảng cũng còn có hy
vọng hơn.
Buổi trua hôm đó tôi và Nghĩa ra
chợ mua một nải chuối, lên chùa Năm Tháp gần đó để cúng Phật, để cầu xin
Đức Phật Từ Bi độ trì đưa đuờng dẫn lối cho chúng tôi thoát ra đuợc
khỏi nạn cộng sản. Sau khi quỳ lạy cầu nguyện Đức Phật xong, khi đứng
lên là không còn thấy nải chuối đâu hết, mà trong lúc chúng tôi quỳ lạy
thì có nguời tới chớp nải chuối đi mất thật là nhanh.
Đêm đó suy tính cách theo xe để
đi, vì Long bảo phải tìm xe khác mà đi, chứ không được đi theo xe cũ vì
sợ tài xế biết. Trong thời gian mấy ngày ở đó tôi cũng đã quen biết
nhiều nên họ nhận cho tôi đi theo. Đoàn xe đi đến trạm kiểm soát thì
ngừng lại để xét truớc khi ra khỏi thành phố, nhưng vì đoàn xe này có sự
vụ lệnh đi công tác xuống hải cảng để chở hàng cho bộ đội VC nên không
bị lục soát hay hỏi han gì và qua trạm kiểm soát này một cách dễ dàng.
Trên đuờng đi VC đóng đồn dọc theo
đường, thỉnh thoảng đón xe quá giang, nhưng tôi ngồi phía trước chung
với tài xế và lơ xe, nên rất là yên tâm. Trên xe bác tài có khoe một
khẩu súng AK47 đuợc phát cho mỗi xe, nhưng chưa chắc là bác tài đã biết
sử dụng. Tôi nhớ bữa đó trời mua tầm tả và xe bị hư máy phải dừng lại để
sửa chữa, nhưng bác tài rất rành nghề chỉ sửa một chút là xong ngay,
nhưng phải câu một bình xăng phụ ở bên ngoài. Đến chiều thì xe đến hải
cảng Kampong Som, xe dừng trước cổng trên con đường lộ đá dẫn vào hải
cảng. Khi xe vừa đến nơi thì tài xế và lơ xe đi vô cổng một cách tự
nhiên mà không bị hỏi giấy tờ gì hết, nên tôi, Long và Nghĩa cũng đi
theo vô trong hải cảng một cách dễ dàng.
Hải cảng này ở xa khu dân cư, có
mấy lớp hàng rào kẻm gai bao bọc chung quanh, và một trạm kiểm soát tại
cổng chính ra vào, với một số công an biên phòng VC canh gác. Đóng trên
một ngọn đồi gần đó là một đồn công an biên phòng. Bên trong hải cảng là
một bến đá, xây bằng đá tảng, để tàu cặp bến. Tôi cố nhìn thật kỹ quanh
bến tàu để tìm xem có chiếc tàu nào của nuớc tự do, nhưng tôi chỉ thấy
toàn cờ đỏ búa lìềm, toàn cờ cộng sản, thật là thất vọng vô cùng. Gần
bến tàu là hai nhà kho rất lớn bằng sắt cất theo kiểu tiền chế của Mỹ.
Có một đuờng rầy xe lửa, và ở phía trong xó góc có vài toa xe lửa bỏ
không, không thấy nguời lai vãng, gần đó có một phong tên nuớc. Ở phía
ngoài cổng bên cạnh con đuờng lộ đá là một cái ao khá lớn, mà thỉnh
thoảng thấy có công an đến câu cá. Chiều tối đó tôi trở ra xe để ngủ qua
đêm.
Sáng sớm hôm sau xe vô đậu truớc
nhà kho lớn để chất hàng lên. Họ chất lên những bao bắp hột do nhân đạo
quốc tế viện trợ để cứu đói cho dân Kampuchia, nay thực phẩm đó đuợc
dùng để nuôi ăn cho bộ đội VC. Tôi chỉ còn bửa nay để đi lại thong thả
trong hải cảng này, đến sáng mai khi đoàn xe đi rồi thì tôi không còn
chuờng mặt ra đây đuợc nữa, vì bọn công an thấy sẽ biết ngay.
Chúng tôi đang lân la trong hải
cảng thì bỗng có một chiếc tàu tuần của công an biên phòng VC vào cặp
bến để lấy nước ngọt ở cái phong tên nuớc. Khi đó họ có hỏi tụi tôi, có
muốn mua mấy món đồ lậu như ruợu, thuốc lá, đồng hồ, máy radio cassette
v.v….Chúng tôi làm bộ nhận chịu, nhưng hẹn với họ ngày mai sẽ gom tiền
cho nhiều để mua một lần cho tiện. Họ nghe nói thế tuởng là trúng mối
to. Sau khi lấy nuớc xong là họ đi, truớc khi rời bến họ rủ chúng tôi
lên tàu. Long nhanh chân nhảy lên truớc, tôi còn đang luỡng lự ngần ngừ,
vì không biết họ đi đâu và đi làm cái gì, họ không nói gì cả, chỉ rủ
lên tàu để đi thế thôi. Long đã ở trên tàu rồi nên thúc hối tôi lên tàu.
Khi tàu mở dây cột tàu sắp chạy và vì sự thúc hối của Long nên tôi cũng
nhảy lên theo, còn Nghĩa thì không đi.
Tàu chạy ra ngoài, nghe họ kể về
những chuyện đi bắt ghe tàu vuợt biên. Họ đã bắt rất nhiều ghe tàu vuợt
biên và lên giọng rất là sắt máu. Nguyền rủa những nguời vuợt biên là
bọn phản quốc, chạy ra nuớc ngoài, bám chân đế quốc để ăn bơ thừa sữa
cặn v.v… Tôi thầm nghĩ đến những chiếc ghe tàu vuợt biên nếu bị chiếc
tàu tuần này bắt, thì coi như là thân tàn ma dại. Có những chuyến ghe
tàu vuợt biên bị công an VC xả súng tàn sát mặc dầu họ biết đa số là đàn
bà con trẻ.
Họ dẫn chúng tôi xuống hầm tàu để
quảng cáo mấy món hàng mà chúng tôi hứa sẽ mua. Tàu chạy một lúc rồi cặp
bến vô đậu trong căn cứ hải quân của chúng, rồi bảo chúng tôi lên bờ.
Tôi cứ tuởng là tàu trở lại bến cũ cho mình lên, ai dè lại vô căn cứ VC
nên cũng hơi ngại ngại. Hai đứa tôi đi ra cổng và đi theo con đuờng lộ
đá dẫn vô bờ. Căn cứ này nằm xa bờ chừng vài chục thuớc, có con đuờng lộ
đá làm bằng những tảng đá núi mà xe loại lớn có thể chạy đuợc.
Vô tới bờ đi bộ nguợc trở về hải
cảng, dọc theo bờ biển thấy có một xóm chài, có một số tàu đánh cá, hai
đứa tôi vô hỏi thăm. Lên một chiếc tàu thì gặp một nguời có mang một
khẩu súng AK47, lỡ rồi nên tôi làm bộ hỏi để mua cá. Anh này nguời Miên
gốc Việt nên nói được tiếng Việt. Anh ta ngó tới ngó lui rồi hỏi tụi tôi
có muốn vuợt biên không. Chắc có lẽ họ thấy bộ dạng mình vô đây là định
tìm đuờng vuợt biên nên mới hỏi thẳng như vậy. Thấy anh ta có súng thì
hơi sợ, nhưng trong bụng thì muốn tìm cơ hội để đi, nên tôi cũng trả lời
lưng chừng là bây giờ mà tính chuyện vuợt biên đâu phải dễ, tụi tôi ở
đoàn xe vận tải đang đi công tác ở hải cảng. Ông ta tiếp thêm là nếu
muốn vuợt biên thì ba ngày nữa trở lại đây rồi họ sẽ đưa ra hải đảo, ở
đó họ sẽ chuyển qua tàu đánh cá Thái Lan, mỗi nguời hai lượng vàng, ba
ngày nữa tàu sẽ ra khơi, nếu muốn đi thì lại đây. Nói xong ông ta cho
một con cá to và hối tụi tôi đi ngay, vì ở đây lâu không tiện dễ bị nghi
ngờ.
Tôi và Long trở về hải cảng, trên
đuờng đi thỉnh thoảng gặp các toán tuần tiểu của công an biên phòng, họ
đi tuần tra dọc theo bờ biển. Chúng tôi giả vờ mò cua bắt cá trong các
hóc kẻ đá, khi họ đi qua khỏi rồi thì tiếp tục đi. Đi bộ một đoạn đường
khá xa chừng vài cây số. Khi về đến chỗ đậu xe thì thấy có gánh bán cơm,
tôi đổi cho họ con cá để lấy hai dĩa cơm. Sau khi ăn xong, tôi bàn với
Long và Nghĩa là tối nay phải vô ngủ ở trong hải cảng, vì sáng sớm đoàn
xe sẽ chạy trở về Nam Vang, khi đó thì mình không còn có chỗ ẩn thân ở
bên ngoài đuợc. Long và Nghĩa thì có ý định trở lại Nam Vang, rồi trở về
Việt Nam kiếm thêm tiền, vàng rồi trở qua đây, để đi theo mấy ghe tàu
đánh cá. Riêng tôi thì tôi quyết tâm ở lại, kiếm chỗ ẩn náu quanh đây,
may ra có dịp tìm đường đi, chớ quay trở lại Việt Nam thì không thể
đuợc. Tôi quyết tâm là sẽ đi tới mãi chớ không quay lui. Riêng Long và
Nghĩa đều là lơ xe nên chuyện đi hay trở về đều không có gì là nguy hiểm
cả. Sau khi bàn tính một lúc thì Long và Nghĩa đồng ý ở lại vì thấy tôi
quá quyết tâm. Chúng tôi mua ba ỗ bánh mì và lấy theo một bình nuớc rồi
vô trong hải cảng ngay, truớc khi trời tối.
Tôi đã để ý từ truớc thấy có mấy
goong xe lửa bỏ không ở một xó góc không có nguời lui tới. Vì vậy chúng
tôi đợi đến khi trời tối, kín đáo lẻn vô trong toa xe đó và trốn luôn
trong đó. Ngồi trong goong xe nhìn qua khe ván thấy đồn công an canh gác
ở cổng cũng không xa lắm, vì vậy chúng tôi phải giữ gìn thật hết sức im
lặng, đề phòng thật kỹ luỡng. Trong những lúc nguy hiểm tôi thuờng cảnh
giác thức suốt đêm, quan sát nghe ngóng mọi động tịnh bên ngoài. Sợ khi
ngủ hết, lỡ mà có nguời nào ngủ mớ la hoảng hay phát ra tiếng ngáy thì
nguy hiểm lắm.
Khi trời sáng hẳn, tiếng đoàn xe
rời hải cảng để trở về Nam Vang. Lúc bấy giờ bên ngoài không còn nguời
lui tới, không còn thấy bóng dáng tài xế hay lơ xe nữa, vì vậy chúng tôi
phải ẩn mình cho thật kỹ. Chúng tôi nằm im trong toa xe lửa đó, buổi
trưa trời nóng như thiêu, chúng tôi cởi trần, nhờ khe ván hở nên cũng
không đến đỗi nào. Tôi chỉ sợ nếu có nguời muốn sử dụng goong xe này, họ
đến kéo đi thì rất là nguy, chúng tôi sẽ bị phát giác ngay.
Cho đến chiều thì may quá có một
đoàn xe khác xuống cùng vào đậu ở phía cổng như truớc. Tôi mừng quá vì
lại có dịp ra ngoài trà trộn với đám tài xế lơ xe mà không ai để ý. Và
cũng vào khoảng 4 , 5 giờ chiều hôm đó, bỗng đâu xuất hiện một chấm đen
từ ngoài biển khơi đang tiến dần vô bờ, càng lúc càng lớn dần và sau
cùng hiện rõ ra một chiếc tàu đang huớng vô hải cảng, rồi từ từ cặp vào
bến đá. Một chiếc thương thuyền quá lớn mang tên PEP STAR, đặc biệt là
lá cờ trên tàu không phải là cờ đỏ búa liềm, chắc chắn không phải là tàu
cộng sản. Hơn nữa chữ PEP STAR có vẻ là tiếng Anh hơn là tiếng Nga.
Sau khi tàu cặp bến xong xuôi, thấy có
nhiều nguời đi lại gần chiếc tàu, khi đó tài xế và lơ xe ra vô tấp nập.
Trời đã tối chúng tôi chui ra khỏi chỗ trốn và tìm cách lại gần chiếc
tàu. Lúc đó có nhiều công nhân nguời Miên đang lên tàu, tôi liền hỏi
nguời thủy thủ trên tàu họ cho biết là tàu của nuớc Đan Mạch, mà Đan
Mạch là một nuớc ở Âu Châu, nên tôi yên trí chắc chắn không phải là một
nuớc cộng sản, tôi mừng quá vì có thể xin tị nạn đuợc.
Trong bóng tối chúng tôi ngồi ở xa
xa nhìn lên chiếc tàu thấy công nhân nguời Miên lên xuống theo chiếc
cầu sắt cặp sát bên hông tàu. Ở trên tàu ngay chỗ đầu cầu lên xuống có
hai tên công an đang đứng canh gác kiểm soát mọi nguời lên xuống rất là
kỹ lưỡng. Tôi tập trung quan sát mọi hoạt động trên tàu để tìm cách lẻn
trốn lên tàu, nhưng rất là khó khăn vì hai tên công an đang canh gác quá
kỹ. Nếu lở lên tàu mà chúng bắt tại trận thì hết đuờng chối cãi chỉ có
nuớc vô tù, mà riêng tôi thêm tội trốn trại nữa thì chắc chúng sẽ không
tha.
Kể từ khi chui ra khỏi hàng rào ở
trại tù Tống Lê Chân cho đến bây giờ là tôi đã vuợt đuợc một quảng đuờng
khá xa, đã ra khỏi nuớc và ra đến biển và con đuờng duy nhất là phải
lên cho bằng đuợc chiếc tàu này. Nhìn lên trên tàu mà thèm thuồng uớc
gì mình đuợc trốn vô nằm trong chiếc thuyền cấp cứu đang treo lủng lẳng
đong đưa trên đó thì quá kín đáo. Tôi cứ nhìn hoài, tàu này chở những
chiếc xe truck, chỉ có phần đầu máy với cái suờn phía sau. Đây là những
chiếc xe viện trợ nhân đạo của Liên Hiệp Quốc. Cần trục trên tàu đang
hoạt động liên tục đang bốc hàng xuống, mỗi lần một chiếc xe, cho nên
rất là nhanh. Theo tôi nghĩ thì trong đêm nay sẽ bốc hàng xong và ngày
mai tàu sẽ đi, mà tàu của các nuớc Âu Châu thì hiếm khi vào hải cảng của
nuớc cộng sản này.
Trời tối dần mà Long và Nghia thì
cứ hối thúc hoài, định leo đại theo dây cột tàu mà ra tàu. Nhưng đèn pha
chiếu sáng khắp tứ phía thì làm sao mà leo ra đuợc, mà làm sao thoát
hết đuợc ba đứa. Rồi Long lại tính đuờng nhảy xuống nuớc bơi qua bên kia
thành tàu rồi tìm cách leo lên tàu. Tàu thì cao sừng sững đâu có dễ gì
leo lên được, mà chung quanh đèn chiếu sáng choang, vừa nhảy xuống nuớc
là bị bắn liền chứ đừng nói gì tới bơi ra tàu.
Tôi cứ chờ đợi dịp thuận tiện, mắt
tôi cứ dán sát vào hai tên công an đang đứng gác trên tàu, một tên mang
súng AK47, còn một tên mang K54 có lẽ là cán bộ. Quan sát theo dõi họ
thật kỹ để mong tìm một chút sơ hở, nhưng mỗi lần có ai lên tàu là nó
chận lại xét hỏi rất kỹ càng. Với lại mình không biết tiếng Miên, không
giống nguời Miên, nên khó qua mặt đuợc nó.
Bỗng dưng trời xui đất khiến hai
tên công an này đồng lúc rời bỏ vị trí buớc vô trong cabin tàu. Tôi vụt
chạy lên tàu tức khắc kéo theo Long và Nghĩa. Khi lên đuợc trên tàu
chúng tôi chạy băng qua bên kia thành tàu và tìm chỗ ẩn trốn, thì khi đó
hai tên công an lại trở ra canh gác như cũ, nhưng chúng chỉ nhìn về
phía cầu thang lên xuống, chứ không để ý gì về phía chúng tôi. Tôi nhìn
quanh quất không thấy có chỗ nào để ẩn thân, không thể chui vô đống dây
luột hay đống cây gỗ bên cạnh đó, vì dấu đầu lòi đuôi không thể che dấu
hết ba nguời. Nhìn xuống hầm tàu thì thấy nhân công Miên đang làm ở duới
đó và không thể lẫn quẫn ở đây lâu đuợc vì thủy thủ hay công nhân Miên
bất chợt họ thấy họ sẽ nghi.
Ở trên tàu có hai cần trục một cần
trục ở phía bên kia đang hoạt động liên tục, còn một cần trục phía gần
bên tôi thì không hoạt động. Ở phía trên là phòng điều khiển bằng kiến, ở
bên duới là phòng máy, có một lỗ tròn vừa nguời chun vô, tôi liền thử
chui vô rồi kéo Long và Nghia vô theo. Tôi cố ép sát nguời vô trong để
vừa đủ chỗ cho ba đứa ẩn mình. Lần lần tôi dọn dẹp các lon dầu, đồ đạt
dụng cụ để chui sâu vào trong. Nếu có ai bất chợt đi ngang qua thì sẽ
không thấy chúng tôi đuợc, nhưng nếu ló đầu vô trong thì sẽ thấy ngay.
Hơi yên tâm một chút, lúc đó chắc cũng vào khoảng 11, 12 giờ đêm.
Cần trục bên kia vẫn còn đang tiếp
tục hoạt động, độ một giờ sau thì chấm dứt. Sau đó công nhân lần luợt
rời khỏi tàu, duy chỉ còn hai tên công an vẫn đi tới đi lui canh gác bên
kia thành tàu. Sau đó nắp hầm tàu đuợc đóng lại, nắp hầm tàu làm bằng
những lá sách bằng sắt nó chạy từ trong ra ngoài nghe rền vang. Sau khi
nắp hầm tàu đậy xong, bây giờ chúng tôi có thể chui vô sâu thêm nằm
truờn mình trên nóc hầm tàu và mọi sự trở lại vắng lặng hoàn toàn.
Tôi suy nghĩ, truớc khi tàu rời
bến chắc chắn công an biên phòng và quan thuế sẽ kiểm soát rất kỹ, cho
nên tôi phải tìm chỗ trốn khác kín đáo hơn, chớ không thể trốn ở đây
đuợc. Lúc còn ở duới nhìn kỹ mọi hoạt động trên tàu, tôi thấy thỉnh
thoảng có thủy thủ lên xuống ở phía truớc mủi tàu, như vậy phải có cầu
thang lên xuống ở mũi tàu.
Đợi đêm thật khuya vắng lặng, tôi
dặn dò Long và Nghĩa từng nguời một lần luợt chui ra và phải chờ khi nào
công an quay lưng lại thì mới cho chui ra. Bò theo thành tàu, bò ra
phía truớc mũi tàu để tìm cầu thang đi xuống hầm tàu. Trên tàu rất trống
trải mà đèn thì sáng choang, do đó phải bò thật thấp để không thấy lộ
hình lên trên nền trời. Sau cùng tôi đợi khi tên công an vừa xây lưng
lại là tôi chui ra sau cùng, bò dọc núp duới thành tàu đến gần mủi tàu
thì thấy có một cửa nhỏ, tôi mở chốt cửa rồi chui vào trong, có một cầu
thang bằng sắt hình khu ốc, tôi lần theo xuống.
Xuống đến hầm tàu thì tôi thấy
Long và Nghĩa nằm dài ở đó. Đây là khoang tàu nơi chứa hàng, sau khi
hàng bốc đi rồi thì trống trơn không có chỗ nào để ẩn thân, mấy cây cột
bằng sắt cũng không lớn đủ để che thân. Tôi thấy trốn ở đây không đuợc
vì sẽ bị lộ ngay. Tôi lần theo cầu thang khu ốc để đi xuống nữa, thì khi
xuống duới đáy hầm tàu, tôi thấy có một đống cây gỗ ở ngay mũi tàu, tôi
mừng quá vì tìm đuợc chỗ trốn tốt. Tôi sắp lại đống cây gỗ để chừa ra
một lỗ trống, đủ chỗ để cho ba đứa chui vào, xong rồi kéo thanh gỗ đậy
lại, trông giống như cũ, không có dấu vết gì khả nghi. Lúc đó chắc
khoảng 3, 4 giờ sáng, tôi nằm im trong đó, không dám ngủ và dặn kỹ Long
và Nghĩa phải giữ thật im lặng, không được thở mạnh hay ho hen.
Độ khoảng 6 giờ sáng, tôi nghe
tiếng lộp cộp đi xuống cầu thang, họ quét đèn lên trên đống cây, nhưng
không thấy gì khả nghi, họ bỏ đi trở lên. Một lúc sau nữa tôi nghe tiếng
còi tàu hụ lên ba tiếng, tôi mừng quá vì “tàu souffler ba là tàu ra cửa biển”.Một
hồi sau tôi nghe tiếng sóng nước rào rào ở mủi tàu, tôi chợt biết là
tàu đã chạy. Vì đang ở mủi tàu nên tôi không nghe tiếng máy tàu, mà chỉ
nghe tiếng sóng nước đập vào thân tàu nghe rào rào và càng lúc càng
mạnh. Đến một hồi nữa nghe ầm ầm, tôi biết là tàu đang chạy nhanh, đang
rẽ sóng ra khơi. Một hồi sau chúng tôi chui ra khỏi đống cây gỗ.
Tôi định chờ một ngày một đêm rồi
mới lên trình diện vì sợ nếu còn trong hải phận Kampuchia hay Việt Nam,
thì họ có thể kêu tàu tuần đến bắt chúng tôi. Nhưng đến chiều thì Long
bị ói mửa vì say sóng, càng lúc càng nặng, mặc dù trong bụng không còn
thức ăn, chỉ ói ra nuớc, ói ra mật xanh. Sau cùng Long năn nỉ tôi phải
lên trình diện, nếu không sẽ chết. Lúc đó tôi nghĩ là tàu đã chạy đuợc
khoảng 8, 9 tiếng đồng hồ, chưa được xa lắm, chắc là còn trong hải phận
Việt Nam, nhưng vì Long năn nỉ quá, nên sau cùng tôi đành phải lên trình
diện.
Một mình tôi lên truớc, theo cầu
thang khu ốc để lên và khi vừa chui ra khỏi cửa ở mủi tàu nhìn lên phía
phòng lái bằng kính, tôi thấy nguời hoa tiêu đang nhìn xuống phía chỗ
tôi, chỗ mũi tàu. Tôi tức tốc tìm cách đi thật nhanh lên đó ngay, vì sợ
họ kêu tàu tuần đến bắt. Tôi đi thật nhanh, leo lên cầu thang lên tầng
trên cùng và đi thẳng vô phòng lái.
Thấy tôi vừa buớc vô phòng hoa
tiêu, ông ta nỗi giận dậm chân đùng đùng, bấm còi báo động. Ông hỏi tôi
là ai, làm gì vô đây. Tôi liền trả lời tôi là sĩ quan Việt Nam trốn từ
trại tù ở Việt Nam sang Kampuchia và trốn xuống tàu hồi đêm qua, tôi xin
được tị nạn. Nhờ tôi nói bằng tiếng Anh, mặc dù không được trôi chảy,
nhưng cũng hiểu đuợc phần nào. Lúc đó quần áo mặt mày tôi lem luốt dính
đầy dầu nhớt, mạt cưa trông không giống ai. Tôi nói tiếp tên họ số quân
của tôi và tôi đã học khóa Bộ Binh Cao Cấp tại truờng Fort Benning, tiểu
bang Georgia, Hoa Kỳ và xin ông vui lòng liên lạc với tòa đại sứ Mỹ nào
gần đây thì sẽ xác đinh đuợc lý lịch của tôi. Tôi xin ông một điều là
nếu ông không nhận cho tôi tị nạn, thì xin ông bỏ tôi xuống biển, chớ
đừng gọi tàu tuần đến bắt tôi, vì họ sẽ giết tôi.
Sau khi nghe tôi trình bày sự
việc, tình hình bắt đầu lắng dịu, tôi liền nói thêm là hiện còn có hai
nguời nữa còn đang trốn duới hầm tàu. Ông ta lại nỗi giận lên, kêu nguời
đi xuống dẫn Long và Nghĩa lên. Long và Nghĩa đuợc dẫn lên ngồi trong
góc, trông rất thãm não, mặt mày xanh xao, quần áo lem luốc bẩn thỉu.
Xong rồi ông Thuyền truởng gọi báo về công ty, một lúc sau thì công ty
chấp nhận cho chúng tôi tị nạn. Tôi mừng quá đỗi, coi như được sống lại
và tôi có hỏi ông là hiện giờ tàu đang ở đâu, có còn trong hải phận Việt
Nam không, thì ông chỉ cho tôi thấy một hòn đảo trông mờ mờ từ xa đó là
đảo Thổ Chu của Việt Nam và ông cũng nói thêm rằng là kể từ bây giờ
không ai có quyền lên tàu này để bắt chúng tôi lại, vì đây là tàu của
Đan Mạch là đất nuớc Đan Mạch.
Một số thủy thủ đứng chung quanh,
nghe thấy, dần dần họ có cảm tình với chúng tôi, họ đưa cho quần áo giày
dép rồi dẫn chúng tôi đi tắm. Cho chúng tôi vô ở trong một căn phòng,
đây là phòng của một ông kỹ sư đã đi phép. Trên giường nệm có hai tấm
nệm tôi lấy một tấm đặt xuống sàn nằm ngã lưng xuống một cách thoải mái
tuyệt trần. Một lúc sau chúng tôi được dẫn đi ăn, một bửa ăn thật tuyệt
diệu trong đời, trong đó có cơm chiên dương châu và mấy khúc cá thu hấp
rất thơm ngon chưa từng có. Đây là một bửa ăn tuyệt diệu nhất, tự do
nhất, thoải mái nhất, mà tôi cảm thấy như đuợc sống lại sau bao nhiêu
ngày trốn tránh lang thang vất vả căng thẳng tột cùng, có đôi khi gần
nhu tuyệt vọng.
Sau khi ăn xong bửa cơm tuyệt diệu
đó, chúng tôi đuợc dẫn đi thăm viếng tàu. Truớc hết đến phòng ông
thuyền truởng, ông rót ruợu uống mừng cho chúng tôi đã thoát nạn cộng
sản và chụp hình lưu niệm. Sau đó đi tiếp qua các phòng và được biết
trên chiếc tàu này có nhiều nguời thuộc quốc tịch khác nhau như Hòa Lan,
Đan Mạch, Ba Tây, Phi Luật Tân v.v….Các thủy thủ trên tàu cho chúng tôi
xem hình ảnh gia đình của họ và chuyện trò rất là thân mật, thật là hết
sức lịch sự và đầy tình nhân ái. Nghĩa có mang theo một số tiền Việt
Nam không còn xài được nữa, nên mới đưa cho các thủy thủ. Họ rất tốt
bụng đã cho lại chúng tôi mỗi nguời 20 US dollars và chọn cho chúng tôi
mỗi đứa một bộ đồ vừa vặn đẹp đẽ để mặc khi lên bờ.
Chúng tôi được cho lên phòng hoa
tiêu để ngắm nhìn hoàng hôn trong buổi chiều tàn, nhìn mặt trời lặn
trong cảnh nuớc trời bao la, thật là tuyệt đẹp, mà tuởng chừng như trên
chốn bồng lai tiên cảnh nào vậy, trong khi con tàu đang luớt sóng thật
êm đềm. Đây là một chiếc thương thuyền rất lớn nên chạy thật là êm ái,
khác xa với cảnh tuợng của những chiếc ghe vuợt biên bé nhỏ, chở đầy
nguời, bập bềnh trên biển cả mênh mông, sóng gió hãi hùng, và còn phải
lo sợ bị hải tặc hảm hiếp, cuớp của giết nguời thật là ghê rợn.
Buổi tối hôm sau tàu tiến vô một
hải cảng với muôn ngàn ánh đèn rực rỡ, trong một vùng vịnh bao la, với
vô số thương thuyền tàu bè đủ loại, trông thật hùng vĩ huy hoàng tráng
lệ. Đó là hải cảng Singapore. Theo thủ tục của luật di trú thì chúng tôi
phải vô trong phòng và thuyền truởng sẽ khóa cửa lại, để giử chúng tôi
trong đó. Tuy nhiên nếu có cần gì thì cứ gọi, thỉnh thoảng có nguời đến
thăm chừng, thật là hết sức lịch sự tử tế và chu đáo vô cùng.
Chừng vài tiếng đồng hồ sau thì có
hai nhân viên của sở di trú Singapore đi xuồng máy ra lên tàu và mở
khóa cửa phòng, thẫm vấn chúng tôi và làm thủ tục giấy tờ, xong rồi họ
đi ngay. Sau đó thì có một phái đoàn của Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc,
UNHCR, xuống phỏng vấn và làm thủ tục. Tôi trình bày bằng tiếng Anh,
nhưng bất ngờ nguời đó trả lời bằng tiếng Việt và bảo tôi cứ nói bằng
tiếng Việt Nam đuợc rồi. Tôi mừng quá vì đuợc gặp nguời đồng hương, sau
này tôi đuợc biết đó là cô Bích làm việc trong văn phòng Cao Ủy Tị Nạn ở
Singapore. Khi làm thủ tục giấy tờ, và trong nguyện vọng xin đi định cư
nuớc nào, thì tôi xin đuợc đi Mỹ, vì hiện tôi có một đứa em đang ở Mỹ,
và tôi cũng đã từng du học ở Mỹ, nên nghĩ rằng sẽ đuợc cứu xét dễ dàng
hơn. Chúng tôi ngủ thêm một đêm trên tàu và sáng hôm sau thì có nguời
của Cao Ủy Tị Nạn ra đón ba đứa tôi lên bờ, tôi còn nhớ đó là cô Robin,
nguời nuớc New Zealand.
Sau một thời gian 22 ngày đêm vuợt
thoát từ trại tù Tống Lê Chân, nay tôi được đặt chân lên một đất nuớc
tự do là nuớc Singapore vào ngày 27 tháng 6 năm 1980. Chúng tôi đuợc đưa
về tạm trú ở khách sạn YMCA. Ở đây hiện có chừng muời nguời Việt Nam tị
nạn cũng mới đến chừng vài ngày truớc và họ giao nhiệm vụ cho tôi làm
thông dịch viên. Điều đầu tiên là tôi ra Bưu điện để đánh điện tín về
Việt Nam cho gia đình tôi biết tin. Vì có tiền 20 dollars nên tôi gọi
taxi ra Bưu điện và gởi điện tín về cho vợ tôi với nội dung nhu sau: “Đã giải phẩu xong bình an” ,
đó là câu mật hiệu để cho vợ tôi biết là tôi đã thoát nạn và đã đến nơi
an toàn. Điện tín này đã đến nhà tôi vào ngày 30 tháng 6 năm 1980. Vợ
tôi hết sức vui mừng khi nhận đuợc điện tín này, phân vân không biết
Singapore là nước nào ở đâu. Vợ tôi liền đi xuống Mỹ Tho để báo tin mừng
và vô Trung Lương, nơi đất hương quả mồ mã tổ tiên để cúng tạ.
Chúng tôi ở khách sạn YMCA vài ba
ngày để làm thủ tục. Buổi chiều rỗi rảnh chúng tôi dắt nhau ra chợ Tàu.
Đi bộ chừng 15 phút là đến, một dãy kios quán ăn rất là đông vui và ngon
miệng. Long biết nói tiếng Tàu nên rất dễ giao tiếp. Ở Singapore 80% là
người Hoa, còn lại là nguời Ấn và người Mã Lai.
Sau đó chúng tôi đuợc đưa vào Trại
Tị nạn Sambewang, còn gọi là trại Hawkins. Khi vừa buớc vô văn phòng
trại tị nạn, tôi chợt thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ thật lớn treo trên tường
mà lòng hân hoan vui mừng quá độ. Tôi và nhóm nguời mới tới đều vui
mừng sung suớng đến rơi nuớc mắt, đuợc hôn lên Lá Cờ Quốc Gia Dân Tộc
và biết chắc rằng mình đã thật sự thoát khỏi ngục tù cộng sản và đã đến
đuợc bến bờ tự do.
Chúng tôi đuợc lãnh tiền trợ cấp
mỗi nguời 2.50 đồng một ngày, một đồng Singapore lúc đó trị giá vào
khoảng 0.8 dollar Mỹ. Ngoài ra còn đuợc phát mỗi nguời một chiếc chiếu,
và cứ 6 nguời thì đuợc phát một cái lò nấu ăn. Đây là một trại lính với
nhiều tòa nhà có hai tầng khang trang, trại viên trải chiếu trên sàn
gạch rất mát mẻ sạch sẽ, không có ruồi muỗi. Phía ngoài là sân cỏ, đuợc
giử gìn chăm sóc cắt xén rất đẹp như một tấm thảm xanh.
Cuộc sống ở trại tị nạn này rất là
thoải mái, có khu chợ nhỏ ngay trong trại, đa số là nguời Ấn độ, bán đủ
loại thực phẩm, rau cải, trái cây, đặc biệt là trái sầu riêng ở đây có
rất nhiều. Ở ngoài vòng rào và cách trại chừng vài trăm thuớc, có một
con rạch rất lớn, có nhiều cá, nhứt là cá rô Phi. Có nguời chui rào ra,
luới đuợc rất nhiều cá, đem về bán chui qua các nhà.
Những nguời đuợc đưa về trại này
thuờng là chỉ đuợc tạm trú ở đây khoảng 3 tháng, để làm thủ tục đi định
cu, hoặc là những nguời từ trại đảo Galang đưa đến chờ máy bay để đi
định cư. Hàng ngày công việc của trại là theo dỏi tin tức phát thanh
trên loa, để biết khi nào đuợc gặp phái đoàn để đuợc phỏng vấn và khám
sức khỏe.
Khi mới đến trại khai hồ sơ lý
lịch, vì tôi đã từng du học bên Mỹ nên được Ban Chỉ huy trại giao nhiệm
vụ làm Thông dịch viên. Công việc thường ngày của tôi là giúp thông dịch
nếu có phái đoàn vô trại. Còn không thì phải đưa người đi ra các toà
Đại Sứ Anh, Mỹ, Úc v.v…Hoặc đưa người đi bệnh viện, để khám sức khỏe để
đi định cư. Ở trong trại cũng có bệnh xá để điều trị các bệnh nhẹ thông
thường như ho, đau bụng, nhức đầu, nóng lạnh v.v…Lúc đó có Bác sĩ Rạng
trách nhiệm bệnh xá, ông cũng là người tị nạn và trước kia ông từng là
bác sĩ của Bệnh viện 3 Dã chiến ở Phú lợi Bình Dương.
Ở trong trại tôi thấy có nhiều
hoàn cảnh rất là thương tâm. Có nhiều nguời mất vợ mất con mất cha mất
chồng trên đường vượt biển. Như có một ông bác sĩ, tôi nhớ mang máng tên
là Phùng, Bác sĩ Phùng, ông bị khủng hoảng tinh thần gần như điên loạn,
vì cả gia đinh vợ con đều bị chết. Tôi thấy ông cứ đi lang thang nói
nhảm suốt cả ngày. Vì ông mắc bệnh tâm thần như vậy nên không được phái
đoàn nào phỏng vấn, rồi không biết sau này ra sao.
Sau khi đến trại đuợc một tuần,
tôi liền gởi gói quà nhỏ đầu tiên về cho gia đình, trong đó có vài thước
vải đen, chai dầu xanh và kẹo bánh. Ba tháng sau vào tháng 10 năm 1980
thì tôi được đi định cư qua Mỹ. Long và Nghĩa thì được định cư ở Đan
Mạch.
Với lòng tri ơn sâu xa, tôi xin
ghi lòng tạc dạ công ơn cứu tử của thuyền trưởng và toàn thể thủy thủ
đoàn trên chiếc thương thuyền Pep Star, thuộc công ty hàng hải của nước
Đan Mạch, đã cứu vớt tôi và giúp cho tôi thoát khỏi ngục tù cộng sản và
cho tôi đến được bến bờ tự do. Đây quả là một công ơn quá lớn lao mà
suốt đời tôi không bao giờ quên đuợc.
Tôi cũng không bao giờ quên nghĩa
cử cao đẹp, đầy lòng nhân đạo của Cơ quan Tị nạn Liên Hiệp Quốc UN/HCR
và dân tộc các nuớc trên thế giới, đã mở rộng vòng tay cứu vớt, trợ giúp
và cưu mang chúng tôi, những người tị nạn trốn chạy khỏi chế độ cộng
sản bạo tàn phi nhân bản.
Sau khi đến Hoa Kỳ được một năm
thì tôi đuợc vào quy chế thường trú, năm năm thì đuợc vào quốc tịch.
Ngay khi đến Hoa Kỳ, tôi lo ngay việc nạp đon xin bảo lãnh gia đình qua
chương trình ODP và 9 năm sau thì vợ tôi và ba đứa con đã đến được Hoa
Kỳ. Sau hơn 14 năm xa cách kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày miền Nam
rơi vào tay cộng sản, nay gia đinh tôi đuợc đoàn tụ lại như xưa, đã
thoát khỏi gông cùm cộng sản và được sống trên quê hương mới đầy lòng
nhân ái bao dung.
Đây quả như là một phép lạ do Ơn Trên ban phuớc cho./.
Nguyễn Ngọc Thạch, K20
No comments:
Post a Comment