Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Thursday, 5 July 2018

Người Huế


Những nhạc sĩ gốc Huế

22/10/2012 9:51:45 SA


Đa số người Việt Nam biết Huế không chỉ vì Huế có nhiều cảnh đẹp, có nhiều di tích lịch sử như đền đài, lăng tẩm, thành quách cổ kính mà còn vì những bài thơ trữ tình của các thi nhân nổi tiếng, những câu hò êm ái đượm tình quê hương và nhất là những bản tân nhạc ca tụng xứ Huế thơ mộng đã được phổ biến đến khắp mọi miền trên đất nước.

http://www.hoivanhoavn.org.uk/6-2012/nhungnhacsi.html
http://www.hoivanhoavn.org.uk/6-2012/nhungnhacsi.html

Có những người chưa bao giờ đặt chân đến Huế nhưng qua các bài hát lại thuộc lòng tên những danh lam thắng cảnh của đất cố đô như sông Hương, núi Ngự, cầu Trường Tiền, chùa Thiên Mụ, đài Nam Giao, thôn Vĩ Dạ, v.v… Huế là cái nôi văn hóa của miền Trung, là nguồn cảm hứng của các văn nhân, nghệ sĩ, là nơi dừng chân của các tao nhân mặc khách . Người ta biết đến Huế nhiều nhưng ít ai biết đất cố đô đã sản sinh ra bao nhiêu nhạc sĩ sáng tác tài hoa . Khi người Pháp đặt chân lên đất nước VN họ mang theo vào cả nền âm nhạc Tây phương và đem truyền bá trong dân chúng . Những nhạc sĩ  của đất Thần Kinh cũng dần dần làm quen với ký âm pháp phương Tây và từ đó các nhạc sĩ sang tác tân nhạc đầu tiên ra đời.
1 - NHẠC SĨ  NGUYỄN VĂN THƯƠNG
Người nhạc sĩ tiền phong của nền tân nhạc VN ở cố đô Huế là nhạc sĩ  Nguyễn Văn Thương. Ông sinh ngày  22 - 05 – 1919  và mất ngày  06 – 12 – 2002  tại Saigon, hưởng thọ  84 tuổi. Ông sinh ra trong một gia đình yêu thích âm nhạc. Năm lên  9 tuổi, ông bắt đầu học đàn nguyệt sau đó qua sách vở của người Pháp ông tự học ký âm pháp. Năm 1936, ông tốt nghiệp bậc trung, học tại trường Khải Định Huế và cũng năm này, ông sáng tác bản nhạc đầu tay “Tiếng sông Hương” là bài tân nhạc đầu tiên của xứ Huế. Lúc ấy ông mới 17 tuổi nhưng tên của ông đã bắt đầu đi vào làng âm nhạc VN. Năm 1939  ông lại cho ra đời bản “Đêm đông” là một kiệt tác của tân nhạc VN thời bấy giờ. Bài hát với nét nhạc trữ tình êm ái tiềm ẩn một nỗi buồn man mác, lời ca trau chuốt, mượt mà, đã đi vào lòng người VN qua bao thế hệ. Nữ ca sĩ Bạch Yến là người hát bài “Đêm đông” hay nhất. Bài ca này, lúc đầu được viết theo thể điệu Tango, nhưng khi Bạch Yến trình diễn thì chuyển qua Slow Rock nghe hay hơn. Trong thập niên  60,  cô cũng đã trình bày nhạc phẩm này trong sô Ed Sullivan của Mỹ. Năm 1942 nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sang tác thêm ca khúc “Bướm hoa” cũng được nhiều người ưa thích nhưng không bằng  “Đêm đông”.
Sau đó, ông theo kháng chiến tập kết ra Bắc. Ở ngoài Bắc trong thời gian chống Pháp, ông viết bản “Bình Trị Thiên khói lửa”, soạn nhạc cho các điệu múa của các vở kịch “Chim gâu”, “Tấm Cám”, “Múa ô”, “Chàm rông”. Nhạc phẩm “Bài ca trên núi” ông viết cho  phim “Vợ chồng A Phủ”.
Sau một thời gian tu nghiệp tại CHDC, Đức, ông trở về nước làm giám đốc Nhạc viện Hà Nội và tiếp tục sáng tác. Ông có những tác phẩm về khí nhạc như  “Lý hoài nam”, “Buôn làng vào hội”, “Quê hương”. Trong thời gian ở Đức ông có sáng tác khí nhạc như “Ngày hội non sông”, “Rhapsodie 2”, “Trở về đất mẹ”. Bản giao hưởng “Đồng khởi” của ông được trình diễn ở Leipzig (CHDC Đức) năm 1971.
Cho dù các tác phẩm của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương có uyên bác đến đâu đi nữa rất ít người biết đến . Đa số người VN chỉ biết đến ông qua nhạc phẩm  “Đêm đông ” mà thôi .
Đêm đông xa trông cố hương buồn lòng chinh phu

Đêm đông bên sông ngẩn ngơ kìa ai mong chồng

Đêm đông thi nhân lắng nghe tâm hồn tương tư

Đêm đông ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng

Đêm đông ta lê bước chân phong trần tha hương

Có ai thấu tình cô lữ đem đông không nhà .
 Hoàn cảnh đưa đẩy nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương sáng tác bài ca bất hủ này đã được chính tác giã kể lại cho nhạc sĩ Trương Quang Lục như sau:
“Sau khi đỗ Thành Chung ở Huế tôi ra Hà Nội học để thi Tú Tài. Dịp Tết Nguyên đán năm 1939, không có đủ tiền để về quê ăn Tết, đêm giao thừa tôi đi lang thang khắp phố phường Hà Nội dưới trời mưa phùn lạnh buốt, không một bóng người qua lại trên đường. Qua ga Hàng Cỏ nghe tiếng còi vang lên trong đêm khuya càng thêm nhớ nhà da diết. Dọc phố Khâm Thiên một vài căn nhà vẫn còn sáng đèn. Nghe tiếng chân qua đường, một cô gái bước ra nhìn, thất vọng quay vàoh soi gương treo cạnh cửa, đưa tay vuốt mái tóc. Trời đã khuya, tôi trở về phòng trọ, gió lùa qua khe cửa rít lên từng hồi suốt đêm. Tôi trăn trở không ngủ được, nghĩ đến cuộc đời bất hạnh của những người nghèo khổ, tha hương trong đêm đông lạnh lẽo. Và bài hát “Đêm đông” ra đời trong đêm ấy.
2 - NHẠC SĨ  NGUYỄN HỮU BA
Ông sinh năm 1914  tại làng Đạo Đầu, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị và mất năm 1997 tại Saigon, hưởng thọ 83 tuổi. Tuy sinh ra tại Quảng Trị nhưng suốt cuộc đời và sự nghiệp của ông đã gắn liền với cố đô Huế.
Với bút hiệu Đạo Tâm, ngoài tân nhạc ra ông là một nhà nghiên cứu, một nhạc sư cổ nhạc VN. Ông biết sử dụng nhiều loại nhạc khí cổ truyền khác nhau, là người có công phát triển và bảo tồn nền cổ nhạc miền Trung. Năm lên  8  tuổi ông bắt đầu học đàn. Năm 16 tuổi ông đã hòa nhạc cổ thu vào dĩa Beka của Đức.
Năm 1932 ông áp dụng ký âm pháp Tây phương vào cổ nhạc VN ở Huế. Công trình của ông rất được nhiều người tán thưởng. Năm 1938 ông đậu thủ khoa đàn nhị. Tháng  8 năm 1945, sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền, ông về quê Quảng Trị. Nhưng cuộc đời của ông chỉ có duyên nợ với đất Thần Kinh, nên năm 1950, ông trở lại Huế. Cũng năm này ông thành lập Viện Tỳ Bà nhằm phục hưng quốc nhạc VN, bảo tồn nhiều loại nhạc khí cổ truyền, tàng trữ sách vở về âm nhạc cũng như những tài liệu thu thanh quí giá. Chỉ cần vào cửa Thượng Tứ, rẽ trái khoảng một trăm thước ta sẽ thấy Viện Tỳ Bà của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba. Ông được triều đình Huế tặng thưởng huy chương Long Bội Tinh và vinh tặng chức Hàn lâm viện Đãi chiếu. Sau  1954, ông vào Nam, dạy tại trường Quốc Gia Âm Nhạc Saigon, làm khoa trưởng lý thuyết các trường đại học Vạn Hạnh, Saigon, Huế. Sau đó, ông trở về làm giám đốc trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế. Sau biến cố Tết Mậu Thân (1968)  Viện Tỳ Bà bị tàn phá, gia đình ông dời vào Saigon. Sau năm 1975, gia đình ông thành lập một cơ sở nhỏ chuyên sản xuất các loại đàn cổ rất tinh vi ở quận Phú Nhuận, đồng thời ông cùng người con gái lớn là nhạc sĩ Tuệ Quang mở lớp dạy đàn tranh, học sinh theo học rất đông. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba là người có công truyền bá cái tinh hoa của nền quốc nhạc về nhiều phương diện như  trình diễn, khảo cứu, cổ động và giáo dục. Ông đã đào tạo được nhiều học trò nổi tiếng trong ngành cổ nhạc như Phạm Thúy Hoan (Saigon), Phương Oanh (Paris), Quỳnh Hạnh  (Paris).
Tác phẩm ông để lại cho hậu thế cũng khá nhiều . Về tân nhạc gồm có các nhạc phẩm  như  : “Quảng đường mai  (1940)”, “ Xuân xuân  (1947)”, “Lửa rừng đêm (1947)” , “Thu khói lửa (1950)”, “Tiếng hát quân Nam (1950)”, “Ánh dương trời Nam (1951)”. Về các tác phẩm nghiên cứu và giáo dục gồm có : “Tự học đàn nguyệt  (1940)”, “Vài thiên kiến về âm nhạc (1950)”,  “Bản đàn tranh (1951)”, Nhạc pháp quốc học (1960)”, “Đàn tỳ bà  (1962)”,  “Đàn độc huyền (1962)”   “Đàn nhị huyền (1962)”, “Bài ca Huế (1962)”, “Phương pháp học đàn tranh (1962)”, “Dân ca VN (1961)”. Năm 1966, thu thanh tài liệu nhạc Huế (nhạc Cung đình và nhạc Phật giáo) cùng với Ca Huế cho cơ quan UNESCO vào dĩa  33 vòng  đặt tên là VIETNAM 1.  Năm 1971, thu thanh VIETNAM 2  do ông cung cấp tài liệu, với sự  trợ giúp của nhạc sĩ  Trần Văn Khê. Năm 1998, cả hai dĩa VN1 và VN2 được hãng đĩa Rounder Records ở Mỹ tái bản dưới hình thức CD.
3 - NHẠC SĨ  VĂN GIẢNG
Nhạc sĩ Văn Giảng sinh ngày 12 tháng 05 năm 1924 tại Huế, trong một gia đình có truyền thống âm nhạc. Ông nội của ông là một nhạc sĩ cổ nhạc. Lúc còn nhỏ ông học đàn mandoline. Khi lên trung học thấy người ta đàn guitare ông rất thích. Có giai thoại kể rằng, thuở đó, trong khu phố của ông có một người biết đàn guitare, ông  đến xin học; nhưng ông thầy này ra điều kiện là phải mua tặng cho ông ta một cây đàn guitare mới. Nhà nghèo làm sao có tiền mua đàn để tặng, ông phải đành ở nhà tự học. Nhưng sau môt thời gian, tài nghệ sử dụng đàn guitare cùng kiến thức về âm của ông đã vượt qua ông thầy, và chính ông này lại đến nhờ ông chỉ bảo thêm. Năm 1949, ông sáng tác bài “Thúc quân”, một bản nhạc hùng rất được nhiều người ưa thích. Cùng năm này, ông cho ra đời  bài “Ai về sông Tương” với bút hiệu Thông Đạt. Nhạc phẩm này được thính gìả cả nước tiếp đón một cách nồng nhiệt qua các đài phát thanh, riêng đài Pháp Á chọn làm bài hát hay nhất trong năm 1949, và được tái bản 6 lần không kể những lần in tại hải ngoại sau 1975. Hiện nay, nhạc phẩm này được đánh giá là một trong 10 bài hát hay nhất trong âm nhạc VN. Có một giai thoại khác về nhạc sĩ Văn Giảng với bài “Ai về sông Tương” như sau : “Trong các thập niên 40, 50 ở Huế có nhà xuất bản Tinh Hoa nổi tiếng, chuyên xuất bản các nhạc phẩm của các nhạc sĩ trong nước. Một hôm, ông Tăng Duyệt, giám đốc nhà xuất bản, nói với nhạc sĩ Văn Giảng đại khái rằng, ông chỉ biết làm nhạc hùng chứ không biết làm nhạc trữ tình như các nhạc sĩ khác; vì trước đó, Văn Giảng chỉ sáng tác nhạc hùng mà thôi. Ông im lặng không nói gì cả. Về nhà, ông lặng lẽ sáng tác bài “Ai về sông Tương” và gởi đến các đài phát thanh trong nước. Ông Tăng Duyệt nghe bài hát hay quá muốn xuất bản nhưng không biết Thông Đạt là ai. Một hôm nhạc sĩ  Đỗ Kim Bãng và nhà văn Lữ Hồ đến  nhà  Văn Giảng chơi , thấy bản thảo của bài hát này  và nói cho ông Tăng Duyệt biết. Ông này liền lái xe chạy đến nhà nhạc sĩ  thương lượng ký hợp đồng xuất bản. Thời đó, các thanh niên đều thuộc bài này và thường hay hát nghêu ngao: 
       “ Ai có về bên bến sông Tương,

        nhắn người duyên dáng tôi thương,

        sao đành nỡ dứt tơ vương…”  
Trong hai thập niên 50-60, ông là giáo sư âm nhạc tại các trường trung học ở Huế như Quốc Học, Hàm Nghi, Trường đào tạo giáo viên tiểu học và trưởng ban nhạc đài phát thanh Huế. Trong thời gian này ông cho xuất bản  tập nhạc “Hát mà học” gồm 10 bài hát dành cho thiếu nhi. Ông được học bổng du học ngành nhạc tại Hawai và Bloomington. 
Năm 1956 ông thành lập ban hoà tấu Việt Thanh gồm các nhạc cụ cổ truyền như tỳ, nhị, độc huyền, nguyệt , sáo, vv… và ông sáng tác cho ban này bản hòa tấu  “ Ai đưa con sáo sang sông” dài  60 phút. Ngoài ra ông còn cho xuất bản sách “Kỹ thuật hòa âm” dày  350 trang . 
Năm 1969, ông vào Nam, dạy tại trường QGAN  Saigon  và soạn hòa âm cho hai hãng dĩa Asia và Sóng nhạc. Ông được Bộ Văn Hóa cử làm Trưởng phòng học vụ Nha Mỹ thuật, đảm trách học vụ các trường âm nhạc Saigon, Huế và các trường Cao đẳng Mỹ thuật. 
Năm 1970, ông được Huy chương vàng giải Văn học Nghệ thuật của Tổng thống VNCH với bản “Ngũ tấu khúc” (Quintet for flute and strings). Ông còn được đề cử làm giám đốc nghệ thuật điều hành Đoàn văn nghệ VN gồm  100 nghệ sĩ tân, cổ nhạc và vũ do nhạc sĩ  Hoàng Thi Thơ phụ trách, cùng ban vũ cổ truyền do nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba đảm trách, tham dự Hội Chợ Quốc Tế  ở Osaka  Nhật Bản. 
Ngoài tên Văn Giảng với các bài ca hùng tráng như  “Thúc quân”, “Lục quân VN” ( bài hát này dược các quân trường ở miền Nam chọn làm bài ca nhịp bước cho các tân binh mới nhập ngũ ) , “Đêm Mê Linh ” , “ Quân hành ca ”, “ Qua đèo ”, “ Nhảy lửa ” , ông còn có bút hiệu Thông Đạt với các nhạc phẩm  trữ tình như  “ Ai về sông Tương ” , “Đôi mắt huyền ”, “ Hoa cài mái tóc ”, “ Thương tà áo bay ” , “ Tình em biển rộng sông dài ” , “ Xin đừng bỏ nhau ” , “ Xin đừng chờ em nữa ” , “ Năm nay em mấy tuổi ” và bút hiệu Nguyên Thông với các ca khúc Phật giáo như  “ Từ Đàm quê hương tôi ” , “ Mừng Đản sanh ” , “ Ca Tỳ La Vệ ” , “ Vô thường ” , “ Hoa cài áo lam ” , “ Bao la vô tận ” ,” Bờ mê bến giác ” , “ Buông xả ” ,” Dòng sinh diệt ”, “Đời sống Đức Phật ” ,” Giả hợp ” , “ Hãy tự giác ” , “ Mong tỉnh ngộ ” , “ Tâm bệnh ” , “ Tìm đâu xa ” , “ Vũ khí chơn tâm ” . 
Sau 1975 ông kẹt lại ở Saigon và có mở lớp dạy nhạc tại đường Phạm Văn Hai  , gần chợ Ông Tạ , quận Tân Bình . Năm 1981 ông vượt biên đến đươc Natuna của Nam Dương và để cám ơn hòn đảo đã cho ông dừng chân trên đường đi tìm tự do ông sáng tác bản  “ Natuna người tình đầu ”. Hiện giờ ông đang định cư tại Thành phố Foolscray , bang Victoria , nước Úc . Ông là một nhạc sĩ có tài , nhạc phẩm của ông phong phú , đa dạng . Ông đã đóng góp nhiều cho nền âm nhạc VN nhưng không hiểu tại sao các Trung Tâm sản xuất DVD ca nhạc lại nỡ quên đi không làm DVD về sư nghiệp âm nhạc của ông .
4 - NHẠC SĨ  ƯNG LANG
Người nhạc sĩ đầu tiên của đất Thần Kinh mang dòng máu hoàng tộc là Ưng Lang . Ông tên thật là Nguyễn Phước Ưng Lang , sinh năm 1919 tại Huế . Ông chuyên về Hạ uy cầm   ( guitare hawaienne ) một loại đàn rất thông dụng thời bấy giờ .  Ông là tác giả những nhạc phẩm như   “ Chiều về thôn Vỹ ” , “ Nhạc lòng ” , “ Chiều tiễn biệt ” và nhất là  ca khúc  “ Mưa rơi ” viết chung với Châu Kỳ đã đưa tên tuổi ông đến với những người yêu nhạc VN . Tác phẩm  “ Mưa rơi ” là kết quả của mối tình đầu đau thương của tác giả  . Sau  khi tốt nghiệp Trường Công chánh Huế ông được bổ nhiệm về Sở Lục Lộ  tỉnh Nghệ An  đặt ngay tại thị xã Vinh . Lúc ấy ông  21  tuổi . Ông được gia đình bà chị  có cửa hàng buôn bán tại Vinh  cho một căn phòng để ở . Phòng ông có cửa sổ nhìn sang dãy nhà đối diện bên kia đường  . Chiều chiều sau khi đi làm về ông thường mở cửa sổ cho mát và lấy đàn ra lả lướt vái bài cho đỡ buồn . Không ngờ tiếng đàn Hạ Uy cầm  du dương của ông lại lọt đến tai của các nghệ sĩ của thị xã . Họ mời ông gia nhập  “ Ban Nhạc Mang Hưng ” mà đa số nhạc sĩ là người Việt gốc Hoa . Nhưng đối với ông tiếng đàn lọt vào tai các nhạc sĩ của thị xã không quan trọng bằng lọt vào tim của một hoa khôi sống với cha mẹ trong căn nhà đối diện với nhà chị ông . Ta hãy nghe nhạc sĩ Lê hoàng Long nói về giai nhân , người yêu đầu tiên của  nhạc sĩ Ưng Lang như sau  : “ Ưng Lang đưọc biết mỹ danh người đẹp là Ch.L. tuổi vừa đôi chín . Từ đó , hàng ngày khi màn đêm buông xuống , Ưng Lang lại lấy đàn ra nắn phím buông tơ . Tiếng đàn Hạ Uy cầm réo  rắt , ngân nga vọng sang tận bên kia đường rồi vang trong nhà người đẹp . Ngày nào như ngày ấy , đúng giờ là tiếng đàn lại nỉ non , thánh thót khiến mỹ nhân nhẹ nhàng thướt tha , uyển chuyển , lúc ẩn , lúc hiện sau tấm màn cửa đong đưanhư đang uốn lượn trong vũ khúc trước làn gió nhẹ . Tay nắn phím , tay buông tơ nhưng mắt Ưng Lang vẫn kín đáo nhìn nên thấy cảnh đẹp như Hằng Nga trong vũ khúc Nghê Thường . Tức cảnh sinh tình , tiếng đàn Ưng Lang lại càng thêm thánh thót và nghe thấy buồn man mác hơn . Nếu ai nhìn thấy được cảnh ấy , khách quan cũng nhận định giai nhân và nghệ sĩ tình trong như đã , mặt ngoài còn e .  Ưng Lang mừng thầm cho rằng đây là mối lương duyên tiền định nên ngày ngày chải chuốt từ y phục đến tiếng đàn  ” .   Sau đó hai người yêu nhau bằng một mối tình thật đằm thắm và thơ mộng . Họ cùng thề non hẹn biển sống với nhau đến hết cuộc đời . Nhưng có ai biết được chữ ngờ . Đôi tình nhân đâu biết cuộc tình nồng thắm của họ sẽ phải tan vỡ vì chiến tranh .  Tháng  3 năm  1945  Nhật đảo chánh Pháp và ra lệnh cho tất cả các công chức phải trở về nguyên quán . Ưng Lang cũng không thoát khỏi cái lệnh quái ác ấy nên phải khăn gói trở về làm việc tại Sở Công Chánh  Thừa Thiên . Buổi tiễn đưa đôi tình nhân bịn rịn chia tay lòng đau như cắt . Về đến quê nhà lại gặp cảnh mưa rơi rả rich suốt ngày , bầu trời u ám , nỗi buồn càng thêm da diết . Trong hoàn cảnh đó Ưng Lang sang tác nhạc phẩm  “ Mưa rơi ” và bài hát này đã trở thành ca khúc vượt thời gian  : 
Mưa rơi , chiều nay vắng người

Bên thềm gió lơi , mơ bóng ngàn khơi

Mưa rơi , màn đêm xuống rồi

Mây sầu khắp nơi , thương nhớ đầy vơi

Mưa rơi , đìu hiu giữa trời

Đêm dài vắng ai , thương nhớ nào nguôi .
Sau ngày chia tay  hai người thường xuyên viết thư cho nhau và chờ ngày sum họp . Nhưng tháng  8 năm 1945 chiến tranh nổ ra , không biết gia đình của Ch.L. trôi giạt phương trời nào và từ đó đôi tình nhân mất hẳn liên lạc . Vài năm sau Ưng Lang lập gia đình , sống và làm việc tại Huế . Trước  1975 ông là giáo sư trường Quốc Gia Âm Nhạc Huế .  Mãi đến  20 năm sau ông mới được tin Ch.L. ,người yêu cũ , đã chết trong chiến tranh .
5 - NHẠC SĨ  CHÂU KỲ 
Nhạc sĩ Châu Kỳ sinh ngày  05 – 11 – 1923  tại làng Dưởng Mong  , tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình sống bằng nghề cổ ca  nên ông rất am hiểu về cổ nhạc miền Trung . Học xong chương trình tiểu học tại trường  Tiểu học Dưởng Mong  , ông lên Huế học tại trường Pháp Việt . Ông có giọng hát rất hay nên bạn bè rất thích nghe ông hát . Thấy ông hay  hát những bài  do Tino Rossi ca trong các dĩa của Pháp nên ông đưọc sư huynh Pétrus  Thiều dạy cho nhạc lý Tây phương .  Khởi đầu ông học đàn mandoline. Câu chuyện vui ông kể trên sân khấu Thúy Nga là mối tình đầu lãng mạn của lứa tuổi dậy thì thiếu suy nghĩ khi ông muốn dùng tiếng đàn mandoline để chinh phục trái tim người đẹp Kim Anh , con gái của vị thượng thư , để rồi bị giai nhân từ trên lầu tạt nước xuống khiến ông phải ôm đàn chạy trốn . Nhưng thế sự thăng trầm , cuộc đời dâu biển , mười mấy năm sau ông gặp lại người đẹp tại Saigon trong cảnh nghèo khổ , xác xơ trong khi ông đang là một ca,nhạc sĩ nổi tiếng . Sự gặp gỡ mang nhiều kịch tính này làm ông ngậm ngùi nghĩ đến những đổi thay của đời người và ông viết nên nhạc phẩm  “ Giọt lệ đài trang ” .   
Lúc ông còn theo học bậc trung học thì chị của ông là Châu Thị Minh thành lập đoàn ca kịch Huế  lấy tên là Hồng Thu . Đoàn rất cần ca sĩ trẻ nên bà chị tha thiết yêu cầu ông giúp . Vì gia đình nghèo ông do dự không biết nên tiếp tục học hay là đi giúp chị . Cuối cùng ông bỏ học đi theo chị , trước là để giúp chị trong lúc khó khăn , sau là có tiền giúp cha mẹ . Từ đó ông theo đoàn đi lưu diễn khắp nơi . Thoạt đầu đoàn sang Lào trình diễn tại Savannakhet  đến Thakhet  rồi  thủ đô Vạn Tượng. Sau khi gặt hái đưọc kết quả tốt đẹp ở Lào, đoàn làm một vòng lưu diễn các tỉnh VN. Đoàn ra Bắc xong trở lại Huế rồi vào Nha Trang. Tại đây, trong số khán giả thường trực, có một nữ sinh tuyệt đẹp, con nhà tử tế được nhiều chàng trai trong tỉnh theo đuổi, cô vẫn dửng dưng như không. Nhưng khi thấy chàng ca sĩ  Châu Kỳ đẹp trai  với giọng hát trầm ấm, quyến rũ, tim cô rung động rồi si mê chàng ca sĩ. Châu Kỳ cũng ngất ngây trước vẻ đẹp của cô nữ sinh lãng mạn và hai người yêu nhau. Nhưng thuở ấy, cái thành kiến “xướng ca vô loại vẫn bám rễ trong đa số gia đình VN nên cha mẹ của Đoàn Thị Sum, tên cô nữ sinh , cấm không cho cô gặp Châu Kỳ nữa. Thất vọng vì tình, cô uống thuốc độc tự tử và chết ngày 10-12-1942. Ông quá đau khổ muốn chết theo người yêu, nhưng các nghệ sĩ trong đoàn ra sức an ủi, can ngăn, nhắc cho ông biết còn bổn phận đối với cha mẹ và gia đình, nên ông mới khuây khỏa phần nào. Do đó, ta mới biết được chút ít tại sao những bản tình ca của ông hồi đó đều là nhạc buồn như  “Khúc ly ca”, “ Xin làm người tình cô đơn”, v.v… Nghe tin Huế bị bão lụt, ông trở về Huế thăm gia đình. Nhưng khi về đến quê mẹ Thanh Hà, ông thấy quang cảnh xác xơ, ruộng đồng bị tàn phá, ngôi nhà cũ đã bị san bằng và mẹ ông bị lũ lụt cuốn trôi đi mất. Hoàn cảnh khổ đau này khiến ông viết lên bài “Trở về”, bài hát tiêu biểu cho sự nghiệp âm nhạc của Châu Kỳ :
Về đây buồn trông cánh chim bay

Về đây buồn nghe gió heo may

Về đây đâu còn phút sum vầy

Đâu còn thắm niềm say

Lạnh lung ngắm trời mây…
Năm 1947, ông vào Saigon hát cho đài phát thanh Pháp Á trong ban “Thần Kinh” của nhạc sĩ Mạnh Phát với các ca sĩ thời đó như Minh Diệu, Minh Tần, Mộc Lan, Linh Sơn, Phan Đức… và ban “Tiếng Thùy Dương” do chính ông làm trưởng ban. Trong thời gian này ông và ca sĩ Mộc Lan yêu nhau và trở nên vợ chồng. Cặp danh ca Mộc Lan – Châu Kỳ rất nổi tiếng thường xuất hiện trong các chương trình đại nhạc hội và chương trình phụ diễn tân nhạc tại các rạp chiếu bóng. 
Cuối năm 1949,  cặp ca sĩ  Châu Kỳ - Mộc Lan được ông Thái Văn Kiểm, lúc ấy là Giám đốc Thông tin Huế, mời về hát cho Đài phát thanh Huế. Tình nghệ sĩ thường hay mong manh, năm 1952 cặp vợ chồng Châu Kỳ - Mộc Lan chia tay nhau. Ông buồn bã một mình trở lại Saigon. Đây cũng là thời gian buồn khổ khác của Châu Kỳ và ông đã viết lên những bản nhạc buồn như “Từ giã kinh thành”, “Mưa rơi” (viết chung với Ưng Lang) và ông định cư tại Saigon cho đến ngày nay. Ông tiếp tục hát cho các Đài phát thanhQuốc Gia, Pháp Á và đi trình diễn trong các đại nhạc hội khắp nơi trong nuớc. Sau đó, ông bị động viên  và phục vụ trong đoàn Văn nghệ quân đội.
Năm 1955, Châu Kỳ kết hôn với Kha Thị Đàng, một cô gái miền Nam. Hôn lễ được cử hành tại nhà hang Trương Ký ở Chợ Lớn. Trong số khách tham dự có rất nhiều ca, nhạc sĩ như  Phạm Duy, Phạm Dình Chương, Hoài Trung, Thái Thanh, Thái Hằng, Khánh Ngọc, Dương Thiệu Tước, Trần Văn Trạch, Thu Hồ, Văn Phụng, Châu Hà, Hoàng Trọng, Thẩm Oánh… Đôi vợ chồng sống rất hạnh phúc và có bốn người con, ba trai, một gá . Tất cả đều lập gia đình. 
Ngoài những bản nhạc nêu trên, Châu Kỳ còn có những nhạc phẩm sau : Khi ánh trăng vàng lên khơi, Chiều trên đồi thông, Cố đô yêu dấu, Đừng nói xa nhau, Em không buồn nữ chị ơi, Khuya nay anh đi rồi, Lá vàng khóc lá xanh rơi, Miền Trung thương nhớ, Giữa lòng đất mẹ, Tôi chưa có mùa xuân, Đón xuân này nhớ xuân xưa, Sao chưa thấy hồi âm, Cánh nhạn hồi âm, Con đường xưa em đi, Cuối đường kỷ niệm, Nước mắt quê hương, Em sắp về chưa, Vào mộng cùng em, Được tin em lấy chồng…   
Sau 1975, ông bán căn nhà cũ và chiếc xe Vespa dọn qua Tân Qui, Nhà Bè trong căn nhà ọp ẹp với chiếc xe đạp cũ. Tại đây, ông đã sáng tác bài “Bóng mát Tân Qui” lời ca Của Kiên Giang , “Một mình với ghi-ta”, “Giọt đàn với giọt lệ”,  "Bỏ phố lên rừng” , “Đôi dép ngược”…
6 - NHẠC SĨ  LÊ MỘNG BẢO
Nhạc sĩ Lê Mộng Bảo  sinh năm 1923 tại Huế, trong một gia đình nho giáo gốc Minh Hương. Năm 1940 lúc lên 17 tuổi, ông đã bắt đầu sống tự lập. Ông ra Bắc làm việc cho tờ báo Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng. Ông học chữ Hán với cụ Phan Bội Châu, học nhạc với nhạc sĩ Đặng Thế Phong và Nguyễn Văn Thương. 
Năm 1944, ông trở về Huế  và làm việc tại Sở Bưu điện Huế. 
Năm 1945, ông thôi việc và mở một tiệm bán sách trên đường Trần Hưng Đạo. Ông xuất bản nhạc phẩm “Quảng dường mai” của Nguyễn Hữu Ba và từ đó, ông đi luôn vào ngành xuất bản âm nhạc. Vì công việc làm ăn nên ông thường hay đi Hà Nội, do đó ông quen biết nhiều nhạc sĩ sống ở miền Bắc như Văn Cao, Phạm Duy, Nguyễn Xuân Khoát, Bùi Công Kỳ, Lưu Hữu Phước, Nguyễn Đình Phúc, v.v… Trong thời gian này, theo phong trào chống Pháp ông sáng tác bản nhạc đầu tay “Không làm nô lệ”. 
Name 1948 ông cộng tác với nhà xuất bản Tinh Hoa của ông Tăng duyệt, và chính ông đã giúp ông Tăng Duyệt phát triển thành nhà xuất bản nhạc phẩm uy tín nhất VN. 
Năm 1952, ông Tăng Duyệt cử ông vào Saigon lập chi nhánh nhà xuất bản Tinh Hoa 2  để xuất bản những nhạc phẩm của các nhạc sĩ miền Nam.
Năm 1956,  nhà xuất bản Tinh Hoa Huế ngưng hoạt động, vì tình hình chính trị thay đổi. Tại Saigon, một mình Lê Mộng Bảo khai trương nhà xuất bản lấy tên là Tinh Hoa Miền Nam. Ông có tài kinh doanh nên ngoài việc xuất bản ông còn phân phối nhạc phẩm đến tận các nhà sách và các nhà dù bán nhạc trên các lề đường Saigon. Nhà xuất bản nhạc phẩm của ông là nhà xuất bản VN đầu tiên có tên trong danh mục các nhà xuất bản nhạc quốc tế “Worldwide music trade directory”. 
Ông có nhiều nhạc phẩm sáng tác như  “Đổi thay”, "Mùa ve sầu”, “Phận nghèo”, “Thân phận”, “Bọt bèo”, “Xa anh rồi”, “Không hiểu tại sao”, “Sao lừa dối em”. Ông có sáng tác chung với các nhạc sĩ khác như Văn Phụng, Mạnh Phát, Tô Kiều Ngân, Phạm Mạnh Cương… Ông cũng có bài tân cổ giao duyên “Thân phận” soạn chung với soạn giả cải lương Quế Chi. Bản này được thu thanh vào dĩa, qua giọng ca của Minh Vương và Thanh Kim Huệ.
Ông cùng các nhạc sĩ Lê Thương, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Duy, Xuân Phát… thành lập Hội nhạc sĩ VN. 
Năm 1973, ông cùng với nhac sĩ Văn Giảng, các ca sĩ Mộc Lan, Kim Tước phụ trách lớp nhạc lý tại Viện khoa học giáo dục. Ông cùng với nhạc sĩ Song Ngọc phụ trách chương trình “Hoa tình thương” trên Đài truyền hình VN và đi lưu diễn tại các tiền đồn xa xôi. Ông cũng là chuyên viên báo chí, thời Hoàng Đức Nhã làm Bộ trưởng Thông tin và Dân vận. Ông phụ trách tờ báo “Lẽ sống” ở Saigon. 
Sau 1975, ông đi học tập cải tạo đến 1981. Năm 1993 ông sang Hoa Kỳ theo diện HO và đang định cư tại Cali.
7 - NHẠC SĨ  LÊ MỘNG NGUYÊN  
 
 Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên sinh năm 1930 tại Huế, trong một gia đình trí thức và yêu văn học, nghệ thuật.
Ông có người anh tên Lê Mộng Hoàng, là một ca sĩ có giọng ca Ténor nổi tiếng trong thập niên 40 của Đài phát thanh Huế. Nhưng ông anh thích làm diễn viên điện ảnh hơn làm ca sĩ. Sau khi du học ở Pháp về ngành điện ảnh, ông trở về VN đạo diễn phim  “Bụi đời” và Lê Mộng Nguyên viết nhạc cho phim. 
Nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên sáng tác nhạc hồi còn rất trẻ, nhưng mãi đến năm 1948 ông mới cho ra mắt nhạc phẩm  “Mừng Khánh Đản” nhân dịp khánh thành chùa Từ Đàm Huế, “Vó ngựa giang hồ”, “Mùa lúa mới”, “Trường ca quân tiến”… 
Khi ông 19 tuổi ông yêu tha thiết một cô gái Huế tên M. và chính người đẹp này là nguồn cảm hứng để ông viết bài “Trăng mờ bên suối” (1949). Sáng tác xong, ông gởi ngay cho nhạc sĩ Thu Hồ,  lúc ấy đang là một ca sĩ nổi danh của đài phát thanh Pháp Á, mặc dù trước đó hai người chưa hề quen biết nhau. Thu Hồ đã thu thanh bản nhạc này với ban nhạc Trần Văn Lý. Từ Huế, nhạc sĩ Lê Mộng Nguyên nghe giọng hát cũa Thu Hồ trình bày nhạc phẩm của mình, với cái radio của người hàng xóm tên Lê Văn Hy, qua làn sóng điện của đài Pháp Á. Từ đó ông tiếp tục gởi thêm những bài khác cho Thu Hồ, và hai người trở nên đôi bạn thân cho đến cuối cuộc đời.   
Năm 1950, ông sang Pháp du học về ngành luật. Sau khi đỗ tiến sĩ ông dạy tại Đại học Paris về Luật hiến pháp,  Khoa học Chính trị  và kinh tế.
Năm  1996, ông về hưu và được bầu vào Hàn Lâm Viện Khoa học hải ngoại Pháp. 
Những nhạc phẩm của Lê Mộng Nguyên gồm có :
1948   -  Mừng Khánh Đản, Mùa lúa mới, Vó ngựa giang hồ
1949 -  Trăng mờ bên suối, Một chiều thương nhớ, Trọng     Thủy Mỵ Châu, Chiều thu  Mưa Huế.
1950 - Hoàng Hoa Thôn, Nhớ Huế, Bài thơ Huế, Cô gái Huế, Về chơi thôn Vỹ Dạ, Đôi mắt nhung, Mơ Đà Lạt, Ly hương.
1951 - Bên dòng sông Seine, Xuân tha hương , Lá thư cho mẹ, Trời Âu.
1957 -   Bụi đời  Người đã trở về. 1980 – Xuân về nhớ mãi quê hương .  1988 - Chiề vàng trên chợ Đông Ba .  1991 – Quê tôi .  1992 - Kiếp giang hồ.
8 - NHẠC SĨ  THU HỒ
Nhạc sĩ  Thu Hồ tên thật là Hồ Thu  sinh ngày 14-10-1919 tại làng Tân Mỹ (gần Thuận An), tỉnh Thừa Thiên. Ông có khiếu về âm nhạc và thơ lúc mới 12 tuổi. Ông là ca sĩ đầu tiên đưa những bài hát VN đầu tiên đến với thính giả, là gạch nối giữa những bài hát Pháp lời Việt do cô Kim Thoa, Thanh Tùng, Tư Chơi khởi xướng  và các bài hát hoàn toàn VN. Thời gian theo học tại trường trung học Pellerin, ông ở trọ tại nhà ông bác của nhạc sĩ Trần Văn Lý và được nhạc sĩ truyền dạy cho nhạc lý Tây phương. Ông rất thích hát những bài mà Tino Rossi hay hát. Ông cũng là ca sĩ đầu tiên hát trước công chúng tại Hội Chợ Huế bài “La chanson du gondolier”.
Năm 1943 ông làm trưởng ga  xe lửa Dầu Giây. Xa quê , xa gia đình, ông nhớ nhà, rồi nhớ đến hai câu ca dao “Chiều chiều ra đứng ngõ sau / Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều” khiến ông nhớ đến mẹ và viết nên bài “Quê mẹ”. Tuy là tác phẩm đầu tay, nhưng lại là bài hát tiêu biểu trong sự nghiệp âm nhạc của ông. 
Năm 1947 ông tham gia vào ban “Thần Kinh nhạc đoàn ” với ban nhạc của nhạc sĩ Trần Văn Lý  và các ca sĩ như  Châu Kỳ, Mộc Lan, Minh Diệu, Minh Tần, Kim Nguyên, Mạnh Phát, Thu Thu, Vĩnh Lợi,  vv … 
Năm 1948 đài Pháp Á mở thêm chương trình tân nhạc VN và mời ông cộng tác. Từ đó, tiếng hát cũng như tên tuổi của ông đã vang đi khắp nước. Ngoài đài Pháp Á, sau này đổi tên thành Đài phát thanh Saigon ông còn hát cho đài Quân Đội. Thu Hồ không chỉ là ca sĩ mà còn là nhà soạn kịch và diễn viên sân khấu. Ông đã soạn trên một trăm vở kịch  và cũng là diễn viên trong các vở kịch như “Hai chàng một áo”, “Thầy lang bất đắc dĩ”, vv… Thẩm Thúy Hằng đã mua những kịch bản của ông để diễn trên Đài truyền hình. 
Năm 1954  ông đi quân dịch, làm Trưởng ban tuyên truyền lưu động Đệ I Quân khu đi ủy lạo binh sĩ ở các tiền đồn biên giới. Trong dịp này ông làm bài “Khúc ca Đồng Tháp”. 
Năm 1957,  mãn hạn quân dịch, ông gia nhập ban văn nghệ  “Vì dân” của Tổng nha Cảnh sát Quốc gia. 
Từ 1959 đến 1970, ông là giáo sư âm nhạc các trường trung học ở Saigon như  Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Bá Tòng, Thiên Phước, Thánh Thomas… Ông là thành viên của  SACEM, hội âm nhạc của Pháp, trụ sở đặt tại Paris.
Thu Hồ còn là nhà thơ đưọc nhiều người mến mộ. Ông cho ra mắt tập thơ mang tên  “Ánh bình minh” năm 1965. 
Sau năm 1975, ông kẹt lại ở Saigon. Năm 1990, Mỹ Hà con gái lớn của ông và chồng là tài tử điện ảnh Trần Quang bảo lãnh gia đìng ông sang Hoa Kỳ. Ông sống tại Santa Ana với người con thứ là ca sĩ Mỹ Huyền cho đến cuối đời. 
Năm 1993 ông và nhà thơ luật sư Ðỗ Đức Hậu được Hội Thi sĩ quốc tế (International Society Of Poets) bầu là “Đại sứ thi ca hòa bình” trong hội nghị thi ca họp tại Hoa Thịnh Đốn. 
Để đánh dấu nhạc phẩm “Quê mẹ” tròn 50 tuổi, một đêm ca nhạc mang tên “Đêm quê mẹ” được tổ chức tại vũ trường  Ritz tối 14-10-1993  tại Anaheim. Trong dịp này ông cho ra mắt tuyển tập nhạc “Hoa bốn mùa” gồm 22 bản nhạc ưng ý nhất của ông như “Quê mẹ”, “Tiếng sáo chiều quê”, “Sầu ly biệt”, “Nhớ nhau”, “Tím cả rừng chiều”, “Cô nữ sinh Đồng Khánh”, “Tà áo Trưng Vương”, “Mái tóc em gái Gia Long”, “Trăng huyền diệu” vv… 
Một tuần trước khi ông từ giã cõi đời, các bạn bè đã tổ chức một đêm dạ vũ tương trợ dành cho ông tại Vũ trường  Ritz. Theo ý nguyện của ông các bạn trích ra 567$ góp vào quỹ tượng đài Chiến sĩ tự do. 
Ông mất ngày 19-05-2000, hưỏng thọ 81 tuổi.
9 - NHẠC SĨ  NGÔ GANH
Nhạc sĩ Ngô Ganh chuyên về đàn Piano. Ông không để lại gì nhiều về sự nghiệp âm nhạc của ông, chỉ vỏn vẹn vài ba bài nhạc như “Con chim non”, “Chu Văn An”, “Trần Quốc Toản”, “Mưa dầm”, “Hương Bình”, “Hương Giang dưới trăng”… Người dân xứ Huế chỉ biết ông là một nhà giáo và nhất là lối sống bình dân,giản dị, hoạt bát, lạc quan mang tính khôi hài của ông. “Thầy Ganh đi mô rứa hè ?” Đó là câu chào hỏi chân tình mà người dân Huế dành cho ông. Mọi người đều gọi ông là “thầy Ganh” vì ông là giáo sư âm nhạc trường Đồng Khánh và Khải Định, hai trường Trung học lớn tiêu biểu cho đất Thần Kinh thời bấy giờ. Dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm ông giữ chức Giám đốc Đài phát thanh Huế. Ông là người có công thành lập một đội ngũ nhạc sĩ tân và cổ nhạc cho đài. 
Ông còn là nhà hoạt động chính trị kín đáo. Ban đầu ông gia nhập những tổ chức theo khuynh hướng của cụ Phan Bội Châu. Một thời ông là hội viên của nhóm Tinh Thần do Bác sĩ Nguyễn Tăng Nguyên lãnh đạo. Khi ông Trần Văn Lý lên nắm chánh quyền thì nhạc sĩ Ngô Ganh có mặt trong danh sách đảng Cần lao Cách mạng, ở Huế do ông Nguyễn Chí Kỉnh lãnh đạo (không phải đảng Cần lao Nhân vị của ông Ngô Đình Nhu). Hai nhóm Nguyễn Tăng Nguyên và Nguyễn Chí Kỉnh đã bí mật quyên góp tiền bạc giúp ông Ngô Đình Diệm trên đường bôn ba hải ngoại. 
Người dân xứ Huế sống thân mật với Nhạc sĩ Ngô Ganhvì ông không ham danh lợi và nhất là cái lối sống khác người của ông. Lối sống này đã ảnh hưởng đến những người sống cận kề ông. Ta hãy nghe ông Tôn Thất Lan, học trò cũ của Nhạc sĩ Ngô Ganh nói về cách sống và làm việc của ông :
“Tôi kẻ những dòng nhạc và viết lên đấy những nốt đen, trắng, tròn… đầu tiên lên bảng đen bằng phấn trắng vào năm 1950, lúc tôi theo học lớp Nhất (lớp 5 bây giờ) trường Thượng Tứ, Huế. Thầy dạy nhạc của chúng tôi bấy giờ là nhạc sĩ Ngô Ganh. Đầu thầy cắt ngắn, đã len lỏi nhiều đốm trắng, bạc. Thầy vui tươi, hoạt bát va rất hóm hỉnh. Đó là phong cách rất “lạ lùng” của thầy cô giáo thời đó. Dạy và học là hai việc làm song song tuyệt đối nghiêm chỉnh, không hề có chút đùa nghịch hay dí dỏm nào. Thầy, trò nhìn ngắm nhau bằng những đôi mắt “đứng tròng” trong thế người thẳng đứng. Trong không khí khá nặng nề u uất đó - ảnh hưởng còn vang vọng lại của một quan niệm phong kiến xa xưa, sự xuất hiện linh hoạt, đầy ấn tượng của thầy Ganh quả là một sự kiện lạ lung làm tất cả những cậu bé phải “làm mặt nghiêm” chúng tôi ngỡ ngàng và vô cùng… sung sướng. Một vài chúng tôi mơ hồ cảm nhận rằng đời thật sự là hồn nhiên, là vui tuơi mà sao chúng tôi lại bị bắt phải quên nụ cười ! 
…Trên bục giảng, thầy Ganh không giảng mà hát, vừa đi vừa làm điệu bộ…. Sau thời gian “quen biết” ngắn ngủi, thầy trò xa nhau và chúng tôi cũng quên mất thầy. Rồi sau đó nghe thầy làm Quản đốc Đài phát thanh Huế. Ở đây, thầy lại cũng rất dí dỏm, thầy dùng chữ “deux couleurs” (hai màu) để phê bình một giọng ca không rõ ràng tự nhiên, khi khan khan khi the thé. Đặc biệt là thầy có minh họa rất tài tình và độc đáo “36 nụ cười”, trong đó có nụ cười “rửa đọi”, nụ cười  “mở nút chai”, nụ cười “Xé áo” thật độc đáo mà ai nghe cũng cười. 
Có nhiều giai thoại về thầy Ganh, hay đúng hơn về tính hay diễu cợt, châm biếm mà nhiều người không quên. Lối đặt tên của thầy thật ngẳng đời làm người nghe - những người trong cuộc - rất khó chịu, bị “chơi” mà không nói được. Thầy nuôi hai con chó, một con mang tên “Ỷ thế” , một con “Ba láp” (bậy bạ). Khi có những người khách là quan viên chức không được mời… , thầy thường kêu hai con chó ra la rầy  “Đồ ỷ thế” (cậy quyền), “Đồ ba láp”.
Nhà thầy có hai người giúp việc đều mang tên rất đẹp, rất khuê các như Tuyết Mai, Kim Ngọc, hay đại loại như thế trong khi con gái của thầy thì lại mang những tên rất bình dị, dân dã như Xoài, Mít, Ổi… khách rất đỗi ngạc nhiên khi được giới thiệu con gái và người giúp việc của thầy, tình thế thật tréo cẳng ngỗng...
Món quà thầy Ngô Ganh biếu cho các thế hệ mai sau là một lối sống bình dị, lạc quan, một phong cách tự nhiên hài hước giúp cho mọi người vào thập niên 40, 50 quên đi, bỏ đi một quan niệm sai lầm của xã hội phong kiến, trong đó người nghệ sĩ - người làm đẹp cuộc đời – là “xướng ca vô loại”. Đáng buồn và đáng giận thay!”     
Ông mất năm 1980 trong cảnh nghèo khổ, trong sự quên lãng của nhiều người.
10 - NHẠC SĨ  ĐỖ KIM BẢNG
 
Nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng  gốc Quảng Nam, sinh năm 1932 tại Huế. Ông là bạn đồng khoá với nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương từ trường trung học Khải Định cho đến trường Cao đẳng Sư phạm  và Đại học Văn khoa Hà Nội. Ông học đàn với nhạc sĩ Lê Quang Nhạc, học lóm nhạc lý Tây phương với nhạc sĩ  Văn Giảng và học thêm cổ nhạc với nhạc sĩ  Nguyễn Hữu Ba. Những năm học trung học ông tham gia sinh hoạt văn nghệ trong trường  và trong Gia đình Phật tử  với các bạn như  Phạm Mạnh Cương, Hồ Đăng Tín, Hoàng Nguyên, Kiêm Đạt, Diên Nghị, Tạ Ký (thơ), Minh Tuyền (nhiếp ảnh), Lữ Hồ (văn học)… 
Năm 1949, ông sáng tác ca khúc “Mục Kiền Liên” và trình bày trong mùa  Vu Lan tại Huế.
Năm 1951, ông làm bài  “Mùa th ” được ban hợp ca Thăng Long  dựng thành nhạc cảnh và trình diễn nơi ở trong nước. 
“Hôm nay mùa thi , bao nhiêu người đi

Xe rộn ràng, lớp ồn ào, niềm vui vấn vương.

Thi ơi là thi, sinh mi làm chi ,

“bay” nghẹn ngào, “bám” ồn ào, buồn vui vì mi”
Sau đó được ban Gió Nam của nghệ sĩ Trần Văn Trạch cùng ban Thăng Long trình diễn “Mùa thi” tại Hà Nội năm 1954. Ban Thăng Long đã làm bài hát này nổi tiếng và đưa tên tuổi ông đến giới hâm mộ nhạc VN. 
Năm 1953, ông ra Hà Nội học tại Đại học Văn khoa và Cao đẳng Sư phạm. Trong thời gian này ông học thêm âm nhạc với nhạc sĩ Hùng Lân. Cuối năm 1954, ông di cư vào Saigon . 
Năm 1955, ông tốt nghiệp Cao đẳng Sư Phạm, được bộ Giáo dục biệt phái sang bộ Quốc phòng và dạy tại trường  Võ bị Quốc Gia Đà Lạt  từ 1955 đến 1960. Trong thời gian này ông sáng tác bản “Khúc hát ngày mai” được ban Thăng Long trình bày trên đài phát thanh Saigon và đài Quân đội. 
Năm 1960 về lại bộ Giáo dục ông dạy tại trường Trần Lục rồi Nguyễn Du. Trong năm này ông cho ra đời bài “Mưa đêm ngoại ô” và năm 1963 bài “Bước chân chiều Chủ nhật” do Thanh Thúy hát. 
Năm 1965 ông nhập ngũ khóa 21 trường Võ bị Thủ Đức. Ra trường với cấp bậc chuẩn úy, ông làm việc dưới quyền của thi sĩ Tô Kiều Ngân, lúc ấy là đại úy Trưởng phòng và thi sĩ Tô Thùy Yên, trung úy phụ tá Trưởng phòng của Phòng Văn nghệ Cục Tâm lý chiến. Tại đây ông cùng làm việc với các nhạc sĩ khác như Lam Phương, Duy Khánh, Trầm Tử Thiêng, Song Ngọc, Phạm Minh Cảnh, Anh Việt Thu, vv… Cùng phục vụ trong Cục Tâm lý chiến ông cũng đã gặp và quen biết các nhạc sĩ cùng các văn, nghệ sĩ như  Trần Trịnh, Trần Thiện Thanh, Mai Trung Tỉnh, Tường Linh, Du Tử Lê, Phạm Lê Phương, Tạ Tỵ….Cũng trong thời gian này ông viết bản trường ca “Những người đi giữ quê hương” được Ban hợp ca Quân đội trình bày tại rạp Thống Nhất nhân ngày Quân lực VNCH năm 1969, dưới sự điều khiển của nhạc sĩ Vũ Minh Tuynh và Ngô Mạnh Thu . 
Năm 1969 ông được biệt phái về lại bộ Giáo dục và tiếp tục dạy học cho đến tháng  4-1975. Sau đó, ông đi học tập cải tạo đến năm 1978. 
Năm 1980, ông vượt biên rồi được định cư tại Hoa Kỳ. Ông đi học lại nghề cũ và dạy học ở Boston cho đến 1999 th2 về hưu. Trong thời gian ở Mỹ  ông phổ nhạc bài thơ “Tháng ba đi hành quân” của Trần Hoài Thư. 
Ngoài những nhạc phẩm nêu trên ông còn những sáng tác khác như : Mưa đêm ngoại ô, Sương đêm, Vòng tay giữ trọn ân tình, Vui dựng gia đình, Xin dìu nhau đến tình yêu.
11 - NHẠC SĨ  HOÀNG NGUYÊN
 
Nhạc sĩ Hoàng Nguyên tên thật là Cao Cự Phúc sinh ngày  03-01-1932  tại  Quảng Trị, nhưng lớn lên và học hành tại Huế. Ông mất ngày  21-08-1973  tại Saigon trong một tai nạn xe cộ lúc ông 41 tuổi  là lúc tài năng sáng tác đang lên.
Ông học trung học tại trường Quốc Học Huế, đậu Cử nhân Anh văn tại Đại học Saigon, dạy anh văn và âm nhạc tại Đà Lạt, Vĩnh Long, Saigon. 
Ông phụ trách ban nhạc đại hòa tấu  “Hương thời gian” trên Đài truyền hình VN và chương trình “Tiếng thời gian” trên Đài phát thanh Saigon. 
Ông có nhiều kỷ niệm với Đà Lạt và hai nhạc phẩm nói về miền cao nguyên này là “Ai lên xứ hoa đào”, “Bài thơ hoa đào” trở thành tác phẩm tiêu biểu của ông. Hai tác phẩm này hiện nay được nữ ca sĩ Ánh Tuyết trình bày rất thành công, đã làm rung động những tâm hồn yêu nhạc. Nhạc đã hay mà lời lại như thơ.
Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi

Nghe hơi gió len vào hồn người chiều xuân mây êm trôi

Thông reo bên suối vắng lời dặt dìu như tiếng tơ

Xuân đi trong mắt biếc lòng dạt dào nên ý thơ

Nghe tâm tư mơ ước chuyện Đào nguyên đẹp như chuyện ngày xưa …
 
Về xứ Huế, ông đã để lại cho đất Thần Kinh nhạc phẩm “Tà áo tím”, một bài hát trữ tình lãng mạn, êm đềm, thơ mộng và đã được ca sĩ  Hà Thanh ru vào lòng người : 
Một chiều lang thang bên dòng Hương Giang

Tôi gặp một tà áo tím nhẹ thấp thoáng trong nắng vương

Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương

Rồi lòng bâng  khuâng theo màu áo ấy, màu áo tím hôm nào

Tình quyến luyến ban đầu, chập chờn tâm tư màu áo thoáng chiêm bao… 
Những ca khúc khác của Hoàng Nguyên gồm có : Anh đi mai về, Anh đi về đâu, Bài Tango riêng cho em, Cho người tình lỡ, Đường nào em đi, Đường nào lên Thiên thai, Duyên nước tình trăng, Em chờ anh trở lại, Lá rụng ven sông, Lời dặn dò, Sao em không đến, Thuở ấy yêu nhau.
12 - NHẠC SĨ  NHỊ HÀ
 Image result for nhạc sĩ nhị hà
Nhạc sĩ Nhị Hà tên thật là Lê Quang Mại, sinh ngày  24-08- 1935 tại Quảng Bình, nhưng lớn lên tại Huế và học trường trung học Khải Định. Sau khi đỗ Tú tài 2, ông vào Saigon. Sáng tác của ông không nhiều, nhưng mọi người đều biết tên ông qua nhạc phẩm “Mẹ tôi”, và nhất là từ khi ca sĩ Như Quỳnh hát bài này trên sân khấu Thúy Nga. 
Mẹ tôi tóc xanh nhuộm bạc tháng ngày

Mẹ tôi đau buồn nặng trĩu đôi vai

Bao năm nuôi đàn trẻ thơ nhỏ dại

Cầu mong con mình có một ngày mai… 
Nhạc phẩm thứ hai của Nhị Hà được nhiều người biết đến lá bài “Trở về thôn cũ” nói lên cảnh quê hương điêu tàn đổ nát vì sự tàn phá của chiến tranh trong thời chống Pháp : 
Nhưng sao hôm nay tôi trở lại quê xưa

Tuy con sông xưa vẫn êm đềm uốn quanh

Còn đâu đồng xanh, còn đâu gia đình

Còn đâu bóng hình mẹ già mến yêu… 
Ngoài hai tác phẩm tiêu biểu trên, ông còn sáng tác các bài như : Đừng trách người đi, Lá thư xuân, Nhớ một mùa hoa…
13 - NHẠC SĨ  LÊ CAO PHAN
Nếu không có bài hát “Phật giáo Việt Nam” được dùng làm bài ca chính thức cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, thì rất ít người VN biết đến nhạc sĩ Lê Cao Phan. 
Phật giáo Việt Nam thống nhất Bắc, Nam, Trung  từ đây

Một lòng chúng ta tiến lên vì Đài Sen… 
Trước đây, ông chỉ sáng tác những ca khúc vui tươi dành cho thiếu nhi, cho học sinh, nên thường những ai làm nghề nhà giáo mới biết đến ông. Các bài hát vui của ông dành cho thiếu nhi gồm có : Bài ca tình bạn, Ca múa học vui, Hai chú gà con, Nhi đồng múa ca, Ra chơi, Tập tầm vông, Tiếng còi đánh thức, Vui đi học.
14 - NHẠC SĨ  LÊ QUANG NHẠC
Hiện nay người ta chỉ biết nhạc sĩ Lê Quang Nhạc là người Huế. Ông là giáo sư âm nhạc của vài trường trung học ở cố đô, đồng thời là nhạc sĩ dương cầm trong ban nhạc của Đài phát thanh Huế trong thập niên 50. Tác phẩm duy nhất của ông còn lại đến bây giờ là nhạc phẩm “Xa quê”.
15 - NHẠC SĨ  PHẠM MẠNH CƯƠNG
 
Nói đến nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương , người yêu nhạc nhớ đến “Thu ca”, một trong những ca khúc được thu thanh nhiều nhất từ trong nước đến hải ngoại, và cũng là nhạc hiệu quen thuộc của những chương trình ca nhạc của ông tại các Đài phát thanh và truyền hình Saigon trước năm 1975.
Nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương sinh quán tại Huế, tỉnh Thừa Thiên. Ông theo học bậc trung học tại  trường Khải Định, đỗ Tú tài 2 năm 1953. Sau đó, ông ra Hà Nội tiếp tục việc học, tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm và Cử nhân Văn khoa  1955. 
Từ 1955 đến 1958, ông là giáo sư tại trường trung học Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho. 
Từ 1958 đến 1975, ông là giáo sư môn triết và môn văn tại trường trung học công lập Pétrus Ký và các trường tư thục lớn ở Saigon như Văn Học, Nguyễn Văn Khuê, Bồ Đề, Hưng Đạo, Văn Lang, Lê Bảo Tịnh, Huỳnh Thị Ngà, Thượng Hiền… 
Từ 1960 đến 1975, ông vừa dạy học vừa hoạt động âm nhạc. Ông là trưởng ban các chương trình “Hoa thời đại” của Đài Phát thanh Saigon, “Tiếng hát hậu phương”, “Nghệ sĩ và chiến sĩ” của Đài  Tiếng nói Quân đội, “Chương trình Phạm Mạnh Cương” của Đài truyền hình. Ông còn là giám đốc trung tâm “Tú Quỳnh”, một trung tâm băng nhạc quy mô đầu tiên tại Saigon. 
Năm 1980, ông rời Việt Nam và định cư tại thành phố Montreal, tỉnh Quebec, Canada. Ông tiếp tục hoạt động văn nghệ : thành lập ban nhạc Phạm Mạnh Cương với hai người con là nhạc sĩ Phạm Mạnh Quỳnh và Phạm Lê Diễm Phúc. Đồng thời ông là chủ biên nguyệt san Thẩm Mỹ từ năm 1994 đến nay. 
Một số nhạc phẩm nổi tiếng của ông đã xuất bản và thu thanh tại VN trước 1975 : Thung lũng hồng, Mắt lệ cho người tình, Tóc em chưa úa nắng hè, Thương hoài ngàn năm, Tình yêu đã mất, Giã từ cố đô, Về thăm cố đô, Loài hoa không vỡ, Tháng bảy mưa ngâu, Sầu ly biệt, Nhạc khúc mừng xuân, Thu về trong mắt em… 
Tháng 04-2003,  nhạc sĩ  Phạm Mạnh Cương đã được trung tâm Thúy Nga mời xuất hiện trên băng Vidéo “Paris By Night 70”, chủ đề “Thu ca” cùng với hai nhạc sĩ Lê Dinh và Trường Sa. 

16 - NHẠC SĨ  TRỊNH CÔNG SƠN
  
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sinh ngày 28-02-1939 tại Lạc Giao (cao nguyên miền Trung) trong một gia đình trung lưu gốc Thừa Thiên. Ông lớn lên tại Huế và đỗ Tú tài ban triết học ở trường Chasseloup Laubat Saigon. Ông tự học nhạc, học sáng tác không qua một trường lớp nào cả. Trong thập niên 60, nhạc của ông xuất hiện như một ngôi sao sáng trong vòm trời âm nhạc VN. “Ướt mi” là tác phẩm đầu tay được sáng tác năm 1958 . Ông mất ngày 01-04-2001 tại Saigon. 
Tác phẩm âm nhạc của ông có trên  600 ca khúc, với nội dung gồm  3 khuynh hướng : tình yêu, quê hương (mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến) và thân phận. Nhạc của ông có nhiều cái hay cái lạ, không cầu kỳ, không ngoại lai, không ồn ào, luôn luôn giữ được bản sắc dân tộc. Nhạc của ông không bài nào giống bài nào, cũng không tương tự với một nhạc phẩm nào của người khác. Mỗi bài hát của T.C.Sơn có một nét độc đáo riêng. Ngay cả lời ca trong nhạc T.C.S. cũng có một sắc thái riêng, không giống với các nhạc sĩ khác. Lời ca của TCS không sống sượng theo lối tả chân, không văn chương theo lối mòn sáo rỗng hay rập khuôn theo những qui ước có sẵn. TCS có lối sử dụng ngôn ngữ một cách khéo léo, mới lạ để diễn tả một thứ tình cảm lâng lâng, mơ hồ, phải nhờ cảm tính người ta mới hiểu được. Ví dụ TCS nói đến tình yêu đôi lứa mà không dùng đến chữ “yêu” vì đã có bàn tay, mái tóc, đôi mắt… nói hộ cho rồi : 
Mưa vẫn mưa bay trên từng tháp cổ

Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao

Nghe lá thu mưa reo mòn gót nhỏ

Đưòng dài hun hút cho mắt them sâu…
(DIỄM XƯA) 
Lùa nắng cho buồn vào tóc em

Bàn tay xanh xao đón ưu phiền

Ngày xưa sao lá thu không vàng

Và nắng chưa vào trong mắt em…
(NẮNG THỦY TINH) 
Mỗi bài ca là một bài thơ. Ngoài chất thơ ra trong nhạc TCS còn mang chút triết lý về thân phận con người, hạnh phúc, khổ đau, lẽ vô thường của kiếp sống : 
Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy

Cho trăm năm vào chết một ngày…
(CÁT BỤI) 
Có điều gì gần như niềm tuyệt vọng

Sông bao lần sông đã ra đi

Những ngàn năm trôi đến bây giờ

Sông ra đi hay mới bước về …
(GẦN NHƯ NIỀM TUYỆT VỌNG) 
Ôi tiếng buồn rơi đều

Nhìn lại mình đời đả xanh rêu…
(TÌNH XA) 
TCS đã từ giã cõi đời, ông đã trở về với “Cát bụi”, “Một cõi đi về” của kiếp con người vì ông cũng chỉ là một “Đóa hoa vô thường”. Đường trần ông đã đi qua, “Dấu chân địa đàng” ông để lại là một gia tài âm nhạc tuyệt vời gồm có các tuyển tập  : 
1967 – Ca khúc Trịnh Công Sơn - Tình Khúc Trịnh Công Sơn  -  Ca khúc da vàng .
1968 – Kinh Việt Nam
1969 – Ca khúc da vàng 2 - Ta phải thấy mặt trời  .
1972 – Như cánh vạc bay - Cỏ xót xa đưa - Khói trời mênh mông - Tự tình khúc - Phụ khúc da vàng.
1973 - Lời đất đá cũ - Nhân danh việt Nam.
1989 - Một cõi đi về .
1991 – Em còn nhớ hay em đã quên - Cho con.
1992 - Lời của dòng sông - Khói trời mênh mông 2.
1993 – Bên đời hiu quạnh - Trong nỗi đau tình cờ - Thuở ấy mưa hồng.
1995 - Những bài ca không năm tháng.
1999 - Tuyển tập ca khúc Trịnh Công Sơn 1, 2, 3, 4, 5, 6.
Ngoài các nhạc sĩ chào đời ở Huế hoặc lớn lên và học hành tại Huế, còn có những nhạc sĩ tuy không sinh ra ở Huế nhưng có một thời gian sống hoặc làm việc ở đây, rất nặng lòng với đất cố đô và đã sáng tác nhiều ca khúc bất hủ dành cho xứ Huế. Trong số nhạc sĩ này ta có Duy Khánh, Hoàng Thi Thơ, Dương Thiệu Tước, v.v…
17 - NHẠC SĨ  DUY KHÁNH
Nhạc sĩ Duy Khánh tên thật là Nguyễn Văn Diệp, sinh năm 1936  tại làng An Cư, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông thuộc dòng họ quan phụ chánh đại thần Nguyễn Văn Tường triều Nguyễn. Tuy không sống ở Huế nhưng Quảng Trị rất gần với cố đô, nên ông thường lui tới với các bạn bè ở đây. Ông rất nặng tình với xứ Huế và là người nhạc sĩ có nhiều nhạc phẩm nói về quê hương miền Trung của ông như : Ai ra xứ Huế, Sầu cố đô, Nén hương yêu, Sao không thấy anh về, Thương về miền Trung, Bao giờ em quên, Biết trả lời sao, Lối về đất mẹ, Huế đẹp Huế thơ.
Những ngày cuối đời, ông sống tại Hoa Kỳ và cho xuất bản hai tập nhạc gồm những nhạc phẩm được sáng tác từ  trước đến nay. Tập 1 mang tựa đề “Huế đẹp và thơ”, tập 2   “Nỗi niềm riêng”. 
Ngày 10-01-2003, một buổi dạ vũ mang tên “Tạ tình tiếng hát và dòng nhạc Duy Khánh” được tổ chức tại vũ trường Majestic, thành phố Huntington Beach, quận hạt Orange County, để nhớ công lao của ông đã đóng góp cho nền âm nhạc VN.
18 - NHẠC SĨ  HOÀNG THI THƠ 
 
Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ  sinh ngày  01 – 07 – 1928  tại làng Bích Khê, phủ Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ông học trung học tại Huế. Ông theo kháng chiến một thời gian, sau đó vào Saigon lập nghiệp và sinh hoạt âm nhạc cho đến 1975. Sự đóng góp to tát của ông cho nền âm nhạc VN mọi người đều biết. Vì quê ở miền Trung, nên nhạc của ông cũng mang âm hưởng tiếng hò giọng hát miền Trung. Riêng về xứ Huế, ông có những nhạc phẩm như  “, Chiều cố đô”, Tâm tình gửi Huế, ”… 
Năm 1975, khi biến cố 30-04 xảy ra, lúc đó, ông đang hướng dẫn đoàn văn nghệ VN trình diễn ở Nhật. Sau đó ông định cư tại Hoa Kỳ  và mất ngày 23 – 09 – 2001 tại Glendale , Nam Cali , thọ 74 tuổi .
19 - NHẠC  SĨ  DƯƠNG THIỆU TƯỚC 
Ông là nhạc sĩ gốc miền Bắc nhưng nổi danh qua hai bản nhạc miền Trung : ‘Tiếng xưa” và “Đêm tàn Bến Ngự”. Ông sinh ngày  15 – 05 – 1915  tại  làng Vân Đình , huyện Sơn Lãng , phủ Ứng Hòa , tỉnh Hà Đông, trong một gia đình nho học truyền thống. Năm 1930 ông gia nhập nhóm Myosotis, là nhóm nhạc sĩ đầu tiên khởi xướng tân nhạc VN. Ông chủ trương viết “nhạc Tây theo điệu ta”. 
Trong thời gian ông và vợ, là ca sĩ  Minh Trang, vào Huế thăm bạn bè đồng thời nghiên cứu về dân ca Huế và cổ nhạc miền Trung, ông đã dùng ký âm pháp Tây phương ghi lại một cách chính xác những câu hò, điệu hát của địa phương như hò mái đẩy, ca Huế, nhạc cung đình… 
Cái âm hưởng buồn mênh mông của cổ nhạc Huế bắt nguồn từ tiếng hát ai oán của người dân Chàm mất nước đã ảnh hưởng đến người nhạc sĩ miền Bắc, và ông đã sáng tác bản “Tiếng xưa”. Rồi trong một đêm trăng ông cùng các bạn nghệ sĩ tổ chức đi thuyền ca hát trên sông Hương, một thú vui tao nhã của các văn nhân, nghệ sĩ lúc bấy giờ. Đêm về khuya, mọi người đều đã an giấc trong khoang thuyền. Không ngủ được, ông ra mũi thuyền ngồi ngắm trăng. Giữa cảnh im lặng trời nước mênh mông, nhìn những con đò cập bến sát bên nhau khiến ông bâng khuâng, cảm hứng dạt dào, ông liền lấy sổ tay ra ghi chép và viết nên nhạc phẩm  “Đêm tàn Bến Ngự”. Hai ca khúc bất hủ này trở thành tác phẩm tiêu biểu ông. .
NGUYỄN VĂN CHÁNH
Montréal- Canada

Wednesday, 4 July 2018

TIN VUI GIỜ TUYỆT VỌNG .....

 NỮ DÂN BIỂU VIỆT CỘNG ĐI XĂM MÔI, XĂM MẮT ... BỊ XĂM LỘN CHẤT ĐỘC THẦN KINH VÀ ĐÃ XUỐNG LÀM HỘ LÝ CHO HỒ CHÍ MÈO./-TCL

====================

Hé lộ nguyên nhân gây ra cái chết của Đại biểu Quốc hội đi làm đẹp
Click image for larger version

Name: 341.jpg
Views: 0
Size: 25.4 KB
ID: 1242262  

Chị em phụ nữ giật mình về cái chết của bà Phạm Thị Mỹ Lệ. Bà đã bị chết sau khi đi làm đẹp, khi đang trên đường về nhà. Nguyên nhân gây ra cái chết của bà là gì?
Hiện thi thể nạn nhân đã được đưa đi mai táng, gia đình cam kết không khiếu nại, khiếu kiện gì về sau.

Liên quan đến cái chết của nguyên Đại biểu Quốc hội (ĐBQH) Phạm Thị Mỹ Lệ (SN 1958, Giám đốc Công ty TNHH Mỹ Lệ), nguồn tin của Báo Người Lao Động cho biết cơ quan công an nhận định nguyên nhân ban đầu có thể do bị sốc phản vệ với thuốc kháng sinh.

Theo nguồn tin, đây là loại thuốc thông thường được nhiều tiệm xăm môi mắt, chân mày sử dụng cho khách hàng uống sau khi xăm để kháng viêm, chống phù nề, sưng tấy. Bà Lệ sau khi uống thuốc này đã bị sốc phản vệ dẫn tới nhịp tim đập nhanh, biểu hiện sùi bọt mép, sau đó tử vong. Hiện một số mẫu thuốc, mực phun xăm đã được cơ quan chức năng thu giữ để giám định phục vụ công tác điều tra.

Gia đình nạn nhân đã yêu cầu cơ quan điều tra không mổ tử thi khám nghiệm và cam kết không khiếu nại, khiếu kiện. Vì vậy đến chiều 4-7, thi thể nạn nhân đã được tổ chức an táng.


Bà Phạm Thị Mỹ Lệ

Cũng theo nguồn tin này, bà Lệ mắc bệnh cường giáp và sử dụng nhiều loại thuốc. Do đó, không loại trừ trường hợp các loại thuốc "đá nhau" khi sử dụng vào cơ thể. Người có sức khỏe tốt thì có thể chống chọi được, thế nhưng bà Lệ đã 60 tuổi, sức khỏe có phần suy giảm nên sức đề kháng giảm và cơ thể phản ứng "tiêu cực" với thuốc nên dẫn đến tử vong.

Trước đó, khoảng 18 giờ 30 ngày 30-6, bà Lệ được tài xế chở đến làm đẹp tại tiệm phun xăm Phương Nam (phường Long Thủy, thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước) do chị Nguyễn Thị Phương Nam (SN 1983) làm chủ.

Gần 22 giờ cùng ngày, bà Lệ gọi cho tài xế đến đón về nhà. Khi ô tô chở đến trung tâm hành chính thuộc phường Long Phước thì bà Lệ có dấu hiệu mệt mỏi, ngứa toàn thân. Bà Lệ yêu cầu tài xế chở quay lại tiệm Phương Nam

Khi chủ tiệm ra đón và mở cửa ô tô thì thấy bà Lệ đã bất tỉnh, sùi bọt mép nên chở đi cấp cứu. Tuy nhiên, các y, bác sĩ thông báo bà Lệ đã tử vong trước đó.

Bà Mỹ Lệ hiện là Ủy viên Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam khóa VIII (nhiệm kỳ 2014-2019), Chủ tịch Hội nữ Doanh nhân tỉnh Bình Phước, Giám đốc Công ty TNHH Mỹ Lệ (kinh doanh hạt điều). Trước đó, bà từng là ĐBQH thuộc Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Phước, khóa XIII.

NHỮNG AI CHO RẰNG CON ĐIẾM THÚI PHÙNG TUỆ CHÓ BỊ CHỤP MŨ HÃY LÀM ƠN NGHE MỤ TA CÔNG KHAI XÁC NHẬN LÀ VC NẰM VÙNG 100%./-TCL

ĐAN MẠCH THẰNG ĐẠI TỚ VŨ HEO NỌC ....

 THẰNG KHỐN NẠN VŨ HEO NỌC LẠI NHI NHÔ ĐÁNH LẬN CON ĐEN DÙNG CHỮ "DI DÂN TỴ NẠN" LÀ LƯU MANH - NĂM 1975 CHỈ CÓ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN THÔI - DI DÂN LÀ NHỮNG NGƯỜI LÀM ĐƠN XIN QUA MỸ SỐNG VÀ ĐƯỢC DI TRÚ MỸ CHẤP THUẬN MỚI ĐƯỢC VÀO MỸ - CÒN NGƯỜI TỴ NẠN THÌ CHẠY TRỐN RA KHỎI VN RỒI ĐƯỢC TỴ NẠN LHQ NHÌN NHẬN VÀ ĐƯỢC CÁC NƯỚC NHẬN TÁI ĐỊNH CƯ THEO TIÊU CHUẨN TỴ NẠN - TỴ NẠN HÒAN TÒAN KHÁC VỚI DI DÂN- VŨ HEO NỌC NHẬP NHẰNG ĐỂ XÓA BỎ LẰN RANH TỴ NẠN VÀ DI DÂN DO VC CHO XUẤT CẢNH./-TCL

==================================

(Viết cho  Lễ độc lập 2018)
Lời nói đầu:
Người Việt đến Mỹ ngay sau biến cố tháng tư 1975 được gọi là di tản. Ra đi bằng phi cơ và bằng tàu trên biển Đông. Sau khi hải quân Hoa Kỳ rời khỏi hải phận Việt Nam thì những con thuyền vượt biển đầu tiên ra đi.
Tất cả đều được nhận vào Hoa Kỳ dưới danh hiệu ty nạn vào khoảng 150 ngàn. Con số này nhiều hơn con số chính phủ Mỹ dự trù chỉ nhận có hơn 60 ngàn người. Vào thời đó nước Mỹ chưa có vấn nạn di dân và lòng người Mỹ còn mở rộng sau thảm kịch cộng sản chiến thắng Sài Gòn. Ngày 4 tháng 7 năm 75 những người Việt đầu tiên hiện diện tại Hoa Kỳ vẫn chưa cảm nhận được hương vị của lễ Độc Lập. Nhiều gia đình còn ở trong trại tạm trú chờ các nhà thờ bảo trợ. Qua đến năm 1976, Hoa Kỳ kỷ niệm 200 năm lập quốc, người dân Việt mới lưu ý tham dự cùng các gia đình bảo trợ.
Ngày nay, trải qua gần nửa thế kỷ sống trên quê hương mới, xin nhắc lại một lần ngày lễ vĩ đại nhất của Hoa Kỳ.

Lịch sử lễ Độc lập
Hoa Kỳ lập quốc năm1776 có 4 triệu dân, ngày nay 2018 có 330 triệu. Trải qua 242 năm gia tăng 326 triệu.– Năm 1976 người Việt tại Mỹ có 170 ngàn, ngày nay có 1 triệu 800 ngàn. Sau 42 năm tăng hơn 10 lần– Dân Việt tỵ nạn xây dựng cuộc sống trên đất mới trong khi thế giới chuyển tiếp giữa 2 thế kỷ 20 và 21.– Về kỹ thuật, điện tử thay đổi toàn bộ đời sống.–Về nhân văn, với sự chấp nhận hôn nhân đồng tính, Hoa Kỳ đã tiến bước rất dài trên phương diện tư tưởng, bỏ xa phần còn lại của thế giới cả trăm năm.–Người Việt đã có mặt trên miền đất lịch sử trong một giai đoạn lịch sử. –Xin cùng quay về với câu chuyện lập quốc Hoa Kỳ. Lịch sử quê hương mới một thời bao dung mà di dân tỵ nạn chúng ta đã một thời sống chết tìm đến.

Ngày quốc lễ
Ngày 4 tháng 7 hàng năm là ngày lễ trọng đại nhất của Hoa Kỳ. Đó là ngày Mỹ quốc Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 và bắt đầu chiến tranh cách mạng chống lại Anh quốc trong 6 năm. Đến 1782 Anh và Mỹ ký thỏa ước ở Paris và công nhận Hoa Kỳ độc lập. Người Mỹ đã chiến thắng trận chiến tranh đầu tiên của lịch sử Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ.  Sau kỳ kiểm kê dân số 2010 nước Mỹ dần dần trở thành là đất nước của các sắc dân mà trong đó da trắng sẽ chỉ còn 50% tổng số.
Là công dân gốc Việt trong đợt di dân cuối cùng của thế kỷ 20, chúng ta nên tìm hiểu về đất nước mà chúng ta lập nghiệp. Các di dân tỵ nạn Việt Nam đầu tiên đến Mỹ   năm 1975. (????)

ĐÚNG LÀ TỔ CHỨC TẬP HỢP RUỒI BU .....

BỞI VÌ QUÂN ĐỘI VIỆT CỘNG CÓ NHIỆM VỤ BẢO VỆ ĐẢNG VỊT CỘNG THÌ LÀM GÌ CÓ CHUYỆN BẮT ĐẢNG VIÊN CAO CẤP VC??? KIẾN NGHỊ MUÔN NĂM CŨNG KHÔNG CÓ KẾT QUẢ - BUỒN CƯỜI TRONG SỐ KÝ TÊN CŨNG CÓ CÒ MỒI LINH MU NGUYỄN VĂN LÝ NỮA./-TCL ============================








-----o0o-----

Ghi tên yêu cầu quân đội bắt kẻ BÁN NƯỚC.

Kính mời đồng bào ghi tên yêu cầu quân đội bắt những kẻ bán nước cho Tàu cộng. Xin phổ biến rộng rãi tới bạn bè và người thân. Nếu có nhiều người dân ghi tên khuyến khích, quân đội sẽ mạnh dạn hơn trong việt bắt giữ những KẺ BÁN NƯỚC trước khi chúng giao toàn bộ đất nước, quê hương cho kẻ thù Tàu cộng. Vui lòng ghi tên, thành phố và quốc gia bạn đang cư ngụ. Xin đừng ghi địa chỉ nhà.

Tập Hợp Quốc Dân Việt kêu gọi.

Xin vui lòng tiếp tay phổ biến rộng rãi.

Link: Ghi tên yêu cầu quân đội bắt kẻ BÁN NƯỚC.
Nhung Ke Ban Nuoc
-------------oo0oo---------------
Xin ghi Họ tên , Thành phố, Quốc gia, Mã số rồi nhấn nút
"Send - Gởi đi".
1- Họ Tên/Name (Cần phải có):
2- Thành phố/City: (Cần phải có. Xin đừng ghi số nhà hay tên đường):
3- Quốc gia/Country: (Cần phải có):
4- Mã số/Pass Code: (Cần phải có. Xin đánh mã số bên dưới vào khung nầy. Mã số nầy dùng để ngăn chận các chương trình virus vào phá hoại máy chủ.)
Mã số: July7
Phải ghi đủ chi tiết trong 4 phần, Họ Tên quý vị mới được ghi nhận.

---------o0o---------

Phần đóng góp ý kiến

Chúng tôi xin dành quyền không đăng tải những ý kiến có lời lẽ kém nhã nhặn, thiếu trung thực hoặc quảng cáo cho cá nhân, đảng phái, hội đoàn... Trân trọng.

- Tên, Thành phố, Quốc gia:

- Ý kiến của quý vị:

- Xin đánh mã số trong ngoặc bên dưới vào khung nầy:
Mã số: July7
Cần phải điền đủ 3 phần: Tên, Ý kiến và Mã số, Lời nhắn mới được gởi đi. Xin lỗi quý vị.

Danh sách đồng bào ghi tên yêu cầu quân đội bắt kẻ BÁN NƯỚC:


-------------oo0oo---------------

    
  1. Tran Long, San Jose, USA, 02 July 2018
  2. Tony Ngo, Houston, USA, 03 July 2018
  3. Minh Tran, Boston, US, 03 July 2018
  4. Hoang Lan, San Jose, USA, 03 July 2018
  5. Nguyễn Thị Thanh, Montréal, Canada, 03 July 2018
  6. Thanh Vo, San Jose, USA, 03 July 2018
  7. LM Nguyễn Văn Lý, Huế, Việt Nam, 03 July 2018
  8. Le Nguyen, Phan thiet, Viet Nam, 03 July 2018
  9. Nguyễn Kim Lân, Vĩnh Long, Việt Nam, 03 July 2018
  10. Nguyễn Bạch Phụng, Vĩnh Long, Việt Nam, 03 July 2018
  11. QueNguyen, Lawrenceville, USA - GA, 03 July 2018
  12. B L Nguyen, Sydney, Australia, 03 July 2018
  13. Lan nguyen, Garden Grove , Usa, 03 July 2018
  14. Ho Thi Bich Ha, Suwanee, USA, 03 July 2018
  15. Do Xuan Huy, Alpharetta, USA, 03 July 2018
  16. Do Thi Lam Vien, Roswell, USA, 03 July 2018
  17. Do Quang Tri, Los Angeles, USA, 03 July 2018
  18. Jean Souppaya, Vauréal, France, 03 July 2018
  19. Do Van Binh, Dayton, USA, 03 July 2018
  20. Tam Ngo, Fountain Valley, USA, 03 July 2018
  21. CHAU Tung Thien, Le Plessis Trevise, France, 03 July 2018
  22. Nguyễn Thị Thu Thủy, Sài Gòn, Việt Nam, 03 July 2018
  23. Ha Phan, Milpitas, United States, 03 July 2018
  24. Nguyễn Thị Thu Thủy, Sài Gòn, Việt Nam, 03 July 2018
  25. Thu Huê, Nguyễn, San Diego, USA, 03 July 2018
  26. NGUYỄN ANH VŨ, SÀU GÒN, VIỆT NAM, 03 July 2018
  27. Phuong Do, Charlotte NORTH CAROLINA, USA, 03 July 2018
  28. nguyên son hà, Paris, Phap quôc , 03 July 2018
  29. Nguyen Viet, Tampa, United States, 03 July 2018
  30. Pham Trong Hoang, Pflugerville, USA, 03 July 2018
  31. Nguyen Van KHAI , St. Petersburg, Florida, USA, 03 July 2018
  32. TRAN VAN NHA, SHERBROOKE, CANADA, 03 July 2018
  33. Vu Thuy, 249 Spence Ave Milpitas, CA 95035, ÚA, 03 July 2018
  34. Linh Ngo, San-Jose Caifornia, USA, 03 July 2018
  35. Thanh Ngo, San Jose, USA, 03 July 2018
  36. NGUYEN SON QUAN, ERAGNY, FRANCE, 03 July 2018
  37. Hong Nguyen, Orlando , USA, 03 July 2018
  38. DIEM NGO, SAN JOSE , CA USA, 03 July 2018
  39. Nguyen Viet Hung, 64832 Babenhausen, Germany, 03 July 2018
  40. Vũ Ngọc Phúc, Århus, Denmark, 03 July 2018
  41. Đỗ Văn Chinh, Sài Gòn, Việt nam , 03 July 2018
  42. nguyen charlie, sugar land city.Texas, USA, 03 July 2018
  43. John Tran, Garland, USA, 03 July 2018
  44. Le huu Hoang, Tp hcm, Viet Nam, 03 July 2018
  45. Ngo Bay, Tien Giang, Viet Nam, 03 July 2018
  46. Ngo Chinh, Tien Giang, Viet Nam, 03 July 2018
  47. Luong Nguyen, SanJose, CA 95133, USA, 03 July 2018
  48. Bùi yến phi, Mỹ tho, Việt nam, 03 July 2018
  49. Trần Thanh Tâm, Nokesville/Vitginia, USA, 03 July 2018
  50. Bradon Thái, Nokesville/ Virginia, USA, 03 July 2018
  51. Hồ thị lân, Quãng ngãi, Việt nam, 03 July 2018
  52. Lê kim phụng, Kiên giang , Việt nam, 03 July 2018
  53. Nguyễn Thế Quang, San Jose, USA, 03 July 2018
  54. Kay hoang, Tampa , USA, 03 July 2018
  55. HIEN TRAN, SEATTLE, USA, 03 July 2018
  56. Trần Nam Bình, San Jose, USA, 04 July 2018
  57. Huuphuocpham, Bergischgladbach, Germany, 04 July 2018
  58. Christine Le, San Jose, USA, 04 July 2018
  59. Tran Dung, San Jose, USA, 04 July 2018
  60. Phong N thai, Oslo, Norway, 04 July 2018
  61. Phong N thai, Oslo, Norway, 04 July 2018
  62. Nguyen Anh Thư, Sydney City 2200 , Australia, Australia, 04 July 2018
  63. Nhân mai, westminster, USA, 04 July 2018
  64. jimmy nguyen, horsens, denmark, 04 July 2018
  65. Chanh Nguyen, Montreal, Canada, 04 July 2018
  66. Thien Thanh, Milpitas, United States, 04 July 2018
  67. Dominic Tran, West Palm Beach, United States, 04 July 2018
  68. Dao Kim Quang, Oslo, Norway, 04 July 2018
  69. Dao Stian, Oslo, Norway, 04 July 2018
  70. Vinh Nguyen, Garden City, Kansas, U.S.A., 04 July 2018
  71. Nancy Nguyen, Garden City, Kansas, U.S.A., 04 July 2018

Monday, 2 July 2018

NGUYỄN HƯNG CUỐC KHÔNG CHỐNG CỘNG RẤT CHÍNH ĐÁNG .....

 VÌ HẮN TA LÀ CON RƠI CỦA LÊ ĐỨC THỌ KHI MẸ HẮN LÀM HỘ LÝ CHO THỌ LÚC Ở MẬT KHU QUẢNG NAM./-TCL
=================
 
Tôi không chống Cộng
NGUYỄN HƯNG QUỐC  

Ở cả hai lần bị cấm nhập cảnh vào Việt Nam (11/2005 và 4/2009), tôi đều không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào từ chính quyền Việt Nam. Nhưng tôi nghe được phong thanh đâu đó: người ta cho là tôi “chống Cộng”. Mà không phải từ phía chính quyền, một số bạn đọc ở hải ngoại, ngay cả những người có vẻ có cảm tình với tôi cũng thường nói: Tôi “chống Cộng”. Riêng tôi, xin nói một cách thành thực: Tôi không hề chống Cộng.

Viết thế, tôi biết nhiều bạn đọc sẽ ngạc nhiên. Tuy nhiên, trước khi đánh giá (hay chụp mũ), xin đọc tiếp phần giải thích phía dưới.

Tôi nói tôi không chống Cộng vì hai lý do chính:

Thứ nhất, tôi không thích chữ “chống”. “Chống”, trong tiếng Việt, khác với các từ hoặc từ tố được xem là tương đương trong tiếng Anh như “fight”, “against”, “counter-” hay “anti-”, thường gợi lên hai ấn tượng chính: một, gắn liền với tổ chức, và hai, có tính chất bạo động. Tôi không thích cả hai. Với bạo động, tôi tuyệt đối không thích. Với tổ chức, tôi trân trọng và nghĩ nó cần thiết, hơn nữa, một nhu cầu tất yếu trong đời sống xã hội, nhưng tôi lại không thích nằm trong bất cứ một tổ chức nào; thậm chí, tôi cũng chưa từng đi biểu tình hay ký tên vào bất cứ một kiến nghị chung nào (1), dù, trên nguyên tắc, có thể tôi đồng tình và ủng hộ những việc làm ấy. Tôi không làm những việc ấy chỉ vì một lý do đơn giản: Tôi không thích ở trong “đội ngũ”, dù lâu dài hay tạm thời, chính thức hay không chính thức. Vậy thôi. Khác với Chế Lan Viên, tác giả của câu thơ “Khi đứng riêng tây, ta thấy mình xấu hổ”, tôi chỉ thích đứng một mình. Khi phê phán bất cứ điều gì, tôi chỉ đứng từ góc độ một người trí thức; mà trí thức, tự bản chất, nói theo Edward W. Said, là kẻ lưu vong, nghĩa là, nói cách khác, một mình. Viết, tôi chỉ nhân danh chính mình và những gì mình tin là đúng. “Lực lượng” của tôi chỉ có sách vở và kinh nghiệm, kiến thức và lý trí, lương tâm và lương thức. Còn phương tiện, trước, với cây bút; sau, với bàn phím: Ở cả hai nơi, tôi chỉ có chữ. Hết.

Thứ hai, quan trọng hơn, ở thời điểm bây giờ, theo tôi, nói chống Cộng là nói chống cái không có, hay đúng hơn, cái không còn hiện hữu nữa.

Lý do thứ hai này cần được giải thích nhiều hơn:

Cái gọi là “chống Cộng” bao gồm hai nội dung chính: một, chống lại chủ thuyết Cộng sản (chủ yếu là chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa Lenin); và hai, chống lại chế độ Cộng sản. Với cả hai nội dung ấy, trước năm 1975, nói chống Cộng: Được; trước năm 1990, nói chống Cộng: Được. Nhưng sau năm 1991, nói chống Cộng là nói một điều thừa thãi, thậm chí, vô duyên. Và có hại.

Trong việc chống Cộng, trước năm 1991, hai khía cạnh chống chủ thuyết (hoặc ý thức hệ) và chống chế độ (hoặc một guồng máy) là một. Chế độ, vốn cụ thể, gắn liền với hệ thống chính trị, tức là hệ thống quyền lực, là mục tiêu chống đối trước mắt. Nhưng sức mạnh của chế độ Cộng sản không phải chỉ ở đảng viên, cán bộ, quân đội, công an, súng đạn và các nhà tù. Sức mạnh của chế độ Cộng sản còn ở các lý tưởng tự do, bình đẳng cũng như cái thiên đường Cộng sản chủ nghĩa vốn có sức mê hoặc to lớn đối với mọi người, đặc biệt với giới trí thức vốn khao khát những điều cao cả, có tầm nhân loại. Hơn nữa, nó còn nằm ở các ảo tưởng về tính khoa học của chủ nghĩa Cộng sản hay ở cái gọi là tính tất yếu trong quy luật phát triển của lịch sử. Bởi vậy, người ta không thể chống lại chế độ Cộng sản chỉ bằng các phương tiện vật chất. Người ta phải chống lại chế độ Cộng sản ngay cả trong phạm trù tư tưởng, trong lãnh vực nhận thức, nghĩa là bằng các phương tiện tuyên truyền và giáo dục, nhắm thẳng vào những tên tuổi như Marx, Engels, Lenin và Stalin, những người đã chết; hơn nữa, bằng một bảng giá trị khác, cao hơn, hiện hữu ngay trong đời sống xã hội để mọi người có thể nhìn thấy hoặc cảm nhận được, nghĩa là bằng một nỗ lực không ngừng tự do hoá, dân chủ hoá và nhân quyền hoá, như những điều chủ nghĩa tư bản, ở các quốc gia phát triển nhất, từng làm trong suốt thế kỷ 20.

Tuy nhiên, kể từ năm 1991, với sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, Cộng sản, với tư cách một chế độ, hoàn toàn sụp đổ; và cùng với nó, chủ nghĩa Cộng sản, với tư cách một ý thức hệ chính trị, cũng bị phá sản theo. Trật tự này, thật ra, theo một số học giả, cũng có thể đảo ngược hẳn lại: Vì sự phá sản của ý thức hệ Cộng sản, chế độ Cộng sản, với tư cách một bộ máy chính quyền, đã sụp đổ. Nhưng dù mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi, thực chất của vấn đề vẫn là một: phá sản và sụp đổ.

Về phương diện lý thuyết, hầu như ai cũng thấy chủ nghĩa Cộng sản sai. Những người thiên tả, ít nhiều lưu luyến với chủ nghĩa Cộng sản, cố vớt vát khi cho cái sai ấy không xuất phát từ Karl Marx mà từ Lenin, đặc biệt từ Stalin và Mao Trạch Đông; nghĩa là, nó không sai hẳn, nhưng một, nó không được cập nhật để theo kịp những thay đổi và tiến bộ của chủ nghĩa tư bản; và hai, nó chỉ sai trong cách ứng dụng và vận dụng lý thuyết Marx vào thực tế. Tuy nhiên, nói theo Richard Pipes, trong cuốn Communism, a History (2), chủ nghĩa Cộng sản, ngay trong tư tưởng của Karl Marx, không phải là một ý tưởng hay nhưng bị thực hiện sai mà, tự bản chất, nó là một ý tưởng dở; hay nói theo Kolakowski, do Pipes trích dẫn, chủ nghĩa Marx – nền tảng lý thuyết của chủ nghĩa Cộng sản – là một huyễn tưởng lớn nhất của thế kỷ 20 (3).

Trong vô số những cái sai của chủ nghĩa Marx-Lenin, cái sai này là đáng kể nhất: Họ cho chế độ tư hữu là cội rễ của bất bình đẳng và tin là họ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu ấy để xây dựng một xã hội thực sự bình đẳng, không ai bóc lột ai và cũng không ai thống trị ai. Trên thực tế, khi công hữu hóa mọi tài sản và mọi phương tiện sản xuất, thứ nhất, họ triệt tiêu hầu như mọi động cơ lao động và sản xuất của người dân; thứ hai, họ tạo nên một giai cấp đặc quyền và đặc lợi để nắm toàn bộ việc lãnh đạo và quản lý các tài sản và công cụ sản xuất đã được công hữu hóa ấy. Những người ấy, một mặt, kém khả năng quản lý nên dẫn đến hết thất bại này sang thất bại khác; mặt khác, quan trọng hơn, trở thành một thành phần thống trị vừa ngu dốt vừa độc đoán, vừa tham nhũng vừa tàn bạo. Tất cả các yếu tố ấy không những dẫn đến những sự thất bại nặng nề về phương diện kinh tế mà còn phá hủy toàn bộ nền tảng lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản vốn nhắm đến tự do, bình đẳng và hạnh phúc.

Một cái sai khác của chủ nghĩa Marx-Lenin là họ đơn giản hóa lịch sử nhân loại vào lịch sử đấu tranh giai cấp. Sự phát triển của lịch sử, thật ra, còn tùy thuộc, thậm chí, tùy thuộc chủ yếu vào sự hợp tác của con người trong việc khám phá các quy luật của tự nhiên, từ đó, đẩy mạnh các khám phá về kỹ thuật để nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống của mọi người. Chủ nghĩa tư bản, trong thế kỷ 20, đã chứng minh điều đó: Giới chủ nhân biết san sẻ trách nhiệm và quyền lợi với giới công nhân, nhờ đó, so với thế kỷ 19, công nhân càng ngày càng được hưởng lương cao và càng ngày càng được hưởng chế độ lao động hợp lý hơn. Hơn nữa, chính quyền cũng can thiệp để bảo vệ quyền lợi của công nhân và, qua chính sách thuế khóa, bảo đảm sự công bằng trong xã hội. Nhiều quốc gia mang tiếng là tư bản nhưng về các chính sách lao động và an sinh xã hội lại không khác gì với cái lý tưởng xã hội chủ nghĩa mà Marx mơ ước. Chưa hết. Yếu tố then chốt trong sản xuất không phải chỉ là công cụ sản xuất mà còn có cả tri thức. Mà tri thức thì không ai độc quyền được.

Một người tị nạn, như người Việt Nam sau năm 1975, chẳng hạn, khi sang nước ngoài, với hai bàn tay trắng, không thể sở hữu các công cụ sản xuất để làm chủ nhân bất cứ thứ gì được. Nhưng bù lại, chỉ cần chịu khó học hành, sau một thời gian nhất định, người đó có thể sở hữu một vốn tri thức khá cao đủ để bước vào thế giới trung lưu, thậm chí trung lưu cao, dễ dàng. Chính trong lãnh vực tri thức, vốn gắn liền với giáo dục, xã hội tư bản đã tạo nên sự bình đẳng thực sự và tối đa: Nếu mọi người không được và không thể bình đẳng khi ra đời (vốn gắn liền với gia đình, thành phần xã hội, chủng tộc và những đặc điểm về trí tuệ riêng – những điều không ai có thể lựa chọn được), họ lại được bình đẳng trong cơ hội để phát triển và tiến bộ. Ai cũng được quyền đi học; bất cứ ai có trí và có nghị lực cũng đều đi học được, và từ đó, có thể thay đổi cuộc đời mình được. Với những đặc điểm ấy, chủ nghĩa tư bản không những thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xã hội một cách hiệu quả mà còn tạo nên sự bình đẳng và dân chủ, tuy không hẳn đã hoàn hảo, nhưng cũng hơn hẳn chế độ xã hội chủ nghĩa đủ để mọi người, kể cả những người đang sống dưới chế độ Cộng sản, cũng nhận thấy không phải kẻ thù mà chính mình mới là những kẻ đang đứng trước vực thẳm. Sự so sánh ấy cũng làm cho người ta nhận thấy những hứa hẹn về một thiên đường Cộng sản chủ nghĩa “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, chỉ là một ảo tưởng, hơn nữa, một không tưởng. Cái không tưởng ấy lại bị trả giá bằng máu. Không phải máu của một hai người. Mà là của cả một tập thể, có khi cực kỳ đông đảo. Cả hàng triệu hay chục triệu người.

Về phương diện thực tiễn, với tư cách một chế độ, chủ nghĩa Cộng sản có năm đặc điểm chính trên bình diện tổ chức. Một, đảng Cộng sản nắm độc quyền lãnh đạo; hai, đảng ấy được tổ chức một cách chặt chẽ với một thứ kỷ luật thép từ trên xuống dưới; ba, kinh tế hoàn toàn tập trung, mọi quyết định, kể cả về giá cả thị trường, đều do cấp trên quyết định; bốn, mọi phương tiện sản xuất đều nằm trong tay nhà nước; và năm, mỗi quốc gia đều liên kết và, với những mức độ khác nhau, lệ thuộc vào cái gọi là phong trào Cộng sản quốc tế nói chung. Với cách tổ chức như thế, chế độ Cộng sản vấp phải vô số sai lầm. Và những sai lầm ấy rất dễ thấy.

Thứ nhất, các chế độ Cộng sản không những không công bằng hơn các chế độ tư bản, mà thậm chí, còn tệ hại hơn cả các chế độ phong kiến ngày xưa. Xưa, chỉ có vua, nay có cả nguyên một đảng đứng trên pháp luật. Xưa, chỉ có vua là được hưởng mọi đặc quyền và đặc lợi; nay, có cả hàng triệu người nhân danh đảng thi nhau vơ vét lợi và thao túng quyền.

Thứ hai, ngoài chuyện bất bình đẳng, chế độ Cộng sản, qua hơn 70 năm tồn tại, đã chứng tỏ sự tàn bạo vô tiền khoáng hậu. Những nhà lãnh đạo Cộng sản như Lenin, Stalin, Mao Trạch Đông, Pol Pot, Fidel Castro… không phải giống vua mà là giống các bạo chúa. Vua, còn đỡ. Trong đám vua còn có các minh quân. Trong hàng ngũ lãnh đạo Cộng sản, được xây dựng quyền lực trên nguyên tắc “chuyên chính”, ngay cả những người có tiềm năng là minh quân cũng trở thành bạo chúa. Hậu quả là chế độ Cộng sản trở thành một chế độ đứng đầu trong danh sách giết người trong suốt cả thế kỷ 20. Họ giết người còn nhiều hơn cả chế độ phát xít và Nazi. Bàn tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhuộm nhiều máu hơn cả bàn tay của Hitler. Trong cuốn The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression do Stéphane Courtois và nhiều người khác biên tập (4), các tác giả ước tính tổng số nạn nhân bị giết chết dưới các chế độ Cộng sản trên thế giới kể từ năm 1917 đến năm 1991 là khoảng 100 triệu người, bao gồm khoảng 20 triệu ở Nga, 65 triệu ở Trung Quốc, hai triệu ở Campuchia, hai triệu ở Bắc Triều Tiên, một triệu ở Đông Âu, v.v..

Thứ ba, chế độ Cộng sản hoàn toàn thất bại về phương diện lãnh đạo và quản lý kinh tế đất nước. Không có nước Cộng sản nào giàu có và dân chúng được no ấm. Từ cuối thập niên 1960 đến đầu thập niên 1970, kinh tế của các nước Cộng sản bị lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Đến thập niên 1980, chỉ số phát triển của nó hầu như chỉ là một con số không to tướng. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa thời ấy, rất nhiều cửa tiệm trống rỗng không có hàng hóa để bán (5). Dân chúng ngất ngư vì đói khát. Nhưng dễ thấy nhất là khi chúng ta nhìn vào các quốc gia bị chia đôi, trong đó, một nửa theo chế độ Cộng sản và một nửa theo chế độ tư bản. Như Đông Đức và Tây Đức. Hay như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Cái nửa theo chế độ Cộng sản bao giờ cũng có chỉ số phát triển thấp hơn hẳn cái nửa theo chế độ tư bản. Thấp một cách toàn diện. Riêng ở Triều Tiên, thu nhập tính trên đầu người ở miền Nam (32.400 đô la/người/năm) gấp 18 lần ở miền Bắc (1.800 đô la). Cùng một dân tộc. Cùng một lịch sử. Chỉ khác ở chế độ. Mà hai nơi khác nhau đến vậy.

Cuối cùng, nói theo Stéphane Courtois (6), Cộng sản phạm vô số tội ác không phải đối với con người với tư cách cá nhân mà còn đối với cả văn minh nhân loại và văn hóa quốc gia. Ở đâu, các chế độ Cộng sản cũng phá tan tành rất nhiều di tích và di sản lịch sử cũng như các nhà thờ, chùa chiền và các nơi thờ tự. Họ trấn áp các tôn giáo, xóa bỏ nhiều truyền thống tốt đẹp với lý do, theo họ, đó là những tàn tích của chế độ phong kiến.

Với những thất bại hiển nhiên về cả phương diện lý thuyết lẫn thực hành như vậy, chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn toàn bị sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990, thoạt đầu, vào năm 1989, với việc đảng Cộng sản Hungary chấp nhận một hệ thống chính trị đa đảng vào tháng 2; việc Công đoàn Đoàn kết thắng phiếu trong cuộc bầu cử Quốc hội Ba Lan vào tháng 6, sau đó, lên nắm chính quyền vào tháng 9; việc Bức tường Berlin bị sụp đổ vào tháng 11 (sau đó nước Đức được thống nhất vào tháng 10/ 1990); kết thúc bằng việc Mikhail Gorbachev tuyên bố từ bỏ chế độ độc đảng vào ngày 7/2/1990; và sau đó, sự tan rã của Liên bang Xô Viết vào tháng 12/1991 (trước, trong và sau sự tan ra ấy, có 16 quốc gia – vốn bị sáp nhập vào Liên bang Xô Viết - tuyên bố độc lập, bao gồm: Lithuania, Estonia, Latvia, Georgia, Ukraine, Belarus, Moldova, Azerbaijan, Kyrgyzstan, Uzbekistan, Tajikistan, Armenia, Turkmenistan, và Kazakhstan).

Nếu sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản là biến cố lớn nhất trong nửa đầu thế kỷ 20, sự tan rã của nó ở Nga và Đông Âu là một biến cố trọng đại nhất trong sau thế kỷ 20. Cả hai đều là cách mạng. Cuộc cách mạng đầu nổ ra và, sau đó, tồn tại bằng máu và nước mắt; cuộc cách mạng sau, ngược lại, diễn ra với ba đặc điểm chính: nhanh chóng, nhẹ nhàng và bất bạo động. Có vẻ như giới lãnh đạo Cộng sản (trừ ở Romania) tự ý từ bỏ quyền lực và chế độ Cộng sản tự tan rã. Không có sự kháng cự nào đáng kể cả.

Trước thập niên 1990, trên thế giới có tổng Cộng 23 quốc gia theo chế độ Cộng sản. Trong thời điểm giao thừa giữa hai thập niên 1980 và 1990, có 18 quốc gia từ bỏ Cộng sản: Afghanistan, Albania, Angola, Benin, Bulgaria, Campuchia, Congo, Czechoslovakia, Đông Đức, Ethiopia, Hungary, Mông Cổ, Mozambique, Ba Lan, Romania, Nga, Nam Yemen và Yugoslavia. Người ta gọi những nước này (trừ Đông Đức vốn không còn là một “nước” riêng sau khi thống nhất) là “hậu Cộng sản” (postcommunism), một thuật ngữ do Zbigniew Brzezinski đưa ra vào năm 1989 (7). Do một số quốc gia, sau năm 1991, bị chia cắt (chủ yếu là do vấn đề chủng tộc), hiện nay có 28 quốc gia được xem là hậu Cộng sản (8)..

“Hậu Cộng sản” nghĩa là không còn Cộng sản nữa.

Có thể nói, trên bình diện thế giới, cái gọi là “Cộng sản” đã thuộc về quá khứ. Khi “Cộng sản” thuộc về quá khứ, chuyện chống Cộng cũng không còn lý do hiện hữu nữa.

Thật ra, trên thế giới cũng còn ít nhất năm quốc gia, trên danh nghĩa, chưa từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản: Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Bắc Triều Tiên và Cuba. Tuy nhiên, trong năm quốc gia ấy, chỉ có Bắc Triều Tiên là thực sự Cộng sản, Cộng sản theo kiểu Stalin trong thập niên 1930 và 1940. Ở tất cả bốn nước còn lại, kể cả Việt Nam, chủ nghĩa Cộng sản đang dần dần biến chất và biến thể. Nó không giống chủ nghĩa Cộng sản của Stalin và Mao Trạch Đông. Nó cũng không giống chủ nghĩa Cộng sản của Lenin. Và nó cũng không giống chút nào với cái chủ nghĩa Cộng sản mà Mark và Engels quan niệm.

Thứ nhất, về phương diện kinh tế, tất cả, với những mức độ khác nhau, đều chấp nhận kinh tế thị trường vốn là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản. Dĩ nhiên, cái gọi là “kinh tế thị trường” ở đây vẫn còn bị giới hạn bởi cái đuôi phía sau “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nhưng cái đuôi ấy chỉ là một cố gắng níu kéo nắm giữ quyền lợi cho một số người thuộc tầng lớp thống trị qua các đại công ty và tập đoàn quốc doanh. Trên thực tế, hầu hết các hoạt động và sự điều hướng kinh tế vẫn theo quy luật thị trường, nghĩa là tư bản hóa.

Thứ hai, về phương diện chính trị, tất cả vẫn cố thủ, trên danh nghĩa, trong cái gọi là chủ nghĩa Cộng sản. Nhưng ở đây cũng lại có vấn đề.. Cái gọi là chính trị Cộng sản chủ nghĩa vốn bao gồm hai khía cạnh: một, về tổ chức, sự độc quyền lãnh đạo của đảng Cộng sản; và hai, về phương diện ý thức hệ, lý thuyết của Marx và Lenin. Ở tất cả bốn quốc gia kể trên, Cộng sản chỉ nằm ở bình diện tổ chức, còn ở bình diện ý thức hệ, hầu như không ai còn tin, thậm chí, không mấy người muốn nhắc đến ý thức hệ Cộng sản nữa.. Ngay ở Việt Nam, giới lãnh đạo cũng thừa hiểu chủ nghĩa Marx-Lenin không còn sức thuyết phục và sự quyến rũ nữa. Họ phải thêm vào mấy chữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tuy nhiên, cho đến nay, họ cũng không biết cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” ấy thực sự là gì. Lý do là Hồ Chí Minh vốn là người thực hành, không viết về lý thuyết, và thật ra thì cũng chẳng có lý thuyết gì ngoài một mớ giáo điều đơn giản và cũ kỹ ông học được ở Nga và Trung Quốc. Những kẻ đang nắm quyền tại Việt Nam sử dụng cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” như một huyền thoại chứ không như một chủ thuyết.

Theo chủ nghĩa Marx-Lenin, một hình thái chính trị đúng nghĩa phải tương ứng với, thứ nhất, một hình thái kinh tế nhất định; và thứ hai, một ý thức hệ nhất định. Nền chính trị Việt Nam hiện nay, trên danh nghĩa, vẫn là Cộng sản, nhưng kinh tế lại là tư bản hoặc ít nhất, nửa-tư bản hoặc đang trong quá trình tư bản hóa; còn ý thức hệ thì hoàn toàn trống rỗng: Nó phi-Marx và cũng phi-Lenin. Chẳng giống ai và cũng chẳng là cái gì cả. Đó là một thứ tôn giáo vừa không có thần linh vừa không có điển phạm (canon). Tên nó, ở Việt Nam, nhiều người gọi thẳng: mafia.

Bởi vậy, trong trường hợp của Việt Nam hiện nay, nếu chúng ta nói đến chuyện chống Cộng có lẽ ngay cả những người đang mang danh hiệu đảng viên Cộng sản trong nước – hầu hết đều rất giàu có và sống rất trưởng giả - sẽ cười khì, hỏi: “Cộng nào vậy nhỉ?” Lôi tư tưởng Marx, Engels và Lenin ra phê phán, phần lớn họ - những người chẳng bao giờ thực sự đọc Marx, Engels và Lenin – hẳn sẽ trố mắt lên hỏi: “Mấy người đó là ai vậy? Có phải mấy ông râu ria xồm xoàm gì đó không?” Nói đến đấu tranh giai cấp, đến tầng lớp công nhân và nông dân, đến chuyên chính vô sản, đến công bằng xã hội và đến lý tưởng làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu, những vấn đề nòng cốt của ý thức hệ Cộng sản, họ - những người đang sống như giới thượng lưu và thường được gọi là “tư bản đỏ” – hẳn sẽ bịt tai lại, như nghe những chuyện cổ tích vừa xa vời vừa nhảm nhí.

Trong trường hợp ấy, chống Cộng là chống ai và chống cái gì?

Đối với riêng tôi, khi phê phán chính quyền trong nước, tôi không nghĩ là tôi chống Cộng. TÔI CHỈ CHỐNG LẠI ĐỘC TÀI.

Chế độ Việt Nam hiện nay đáng bị phê phán không phải vì nó là Cộng sản. Mà vì nó là độc tài. Cộng sản chỉ là nhãn hiệu. Độc tài mới là thực chất. Ngay cả khi chúng ta chống lại điều 4 trong Hiến pháp Việt Nam, chúng ta cũng chỉ chống lại một sự độc tài. Chính quyền Việt Nam hiện nay đang rục rịch muốn đổi tên nước. Có khi họ đổi cả tên đảng. Nhưng dù đổi đảng Cộng sản thành đảng Dân chủ hay đảng Cộng hoà, cái việc nhân danh Hiến pháp để giành quyền lãnh đạo độc tôn như vậy cũng vẫn là độc tài. Tên gọi có thể thay đổi, thực chất vẫn là một. Vẫn độc tài.

Mọi sự độc tài đều đáng phê phán. Nhưng khi độc tài đi liền với bất tài thì càng đáng bị phê phán hơn. Và nhu cầu phê phán ấy cũng càng khẩn cấp hơn. Sự độc tài chà đạp lên dân chủ và nhân quyền, nhưng trong một số trường hợp nào đó, dưới một sự độc tài sáng suốt, người ta cũng có thể sẵn sàng chấp nhận hy sinh dân chủ và nhân quyền trong một thời gian nào đó để xây dựng và phát triển đất nước (như trường hợp của Singapore).. Độc tài mà bất tài thì bao giờ cũng gắn liền với sự ngu dốt và tham nhũng bởi họ sẽ không có, không thể có, bất cứ lý tưởng nào khác ngoài tiền và cũng không có một thứ trí tuệ nào khác nào thứ “trí tuệ” dùng để làm giàu cho bản thân và gia đình. Sự ngu dốt trong chính sách và tham nhũng trong bộ máy chỉ tồn tại được nhờ hai yếu tố: dối trá trong tuyên truyền và tàn bạo trong quản trị. Tập hợp của tất cả các yếu tố ấy, người ta chỉ làm được mỗi một việc duy nhất là tàn phá đất nước và hành hạ dân chúng. Tính chất độc tài, bất tài, tham nhũng, dối trá và tàn bạo ấy càng trở thành nguy hiểm hơn nữa khi đất nước đối diện với nguy cơ xâm lấn chủ quyền và lãnh thổ của Trung Quốc.

Đối diện với các nguy cơ trên, chữ “chống Cộng”, theo tôi, rất dễ làm lệch vấn đề. Nó dễ gợi lên ấn tượng là, khi chống lại chế độ Việt Nam hiện nay, chúng ta nhân danh hai điều vốn bị xem là đối lập với Cộng sản, nhất là Cộng sản Việt Nam: Một, chủ nghĩa tư bản và hai, Việt Nam Cộng Hoà lúc trước. Nhưng chúng ta chống Cộng không phải vì chủ nghĩa tư bản và cũng không phải vì để trả thù hay để phục hồi miền Nam. Việc chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam cần xuất phát từ những lý tưởng hiện đại, cao cả và phổ quát hơn: quyền tự do, dân chủ và quyền làm người. Hơn nữa, nó còn xuất phát từ cả sự độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và tiền đồ của đất nước nữa. Trong chiến tranh có tính dân tộc chủ nghĩa, người ta có thể huy động lịch sử, hay nói như Tố Hữu, trước năm 1975, “Bốn mươi thế kỷ cùng ra trận”; trong cuộc chiến chống độc tài, nguồn sức mạnh không phải chỉ nằm ở quá khứ mà còn, nếu không muốn nói chủ yếu còn, nằm ở tương lai.

Chúng ta chống lại chế độ Việt Nam hiện nay không phải vì việc họ chọn lựa hệ thống xã hội chủ nghĩa, việc họ gây ra cuộc chiến đẫm máu ở Việt Nam, việc họ cưỡng chiếm miền Nam, việc họ trả thù những người miền Nam: Tất cả đều đã thuộc quá khứ.

Người ta cần lưu giữ quá khứ, cần thường xuyên đào xới lại quá khứ và cần viết lại quá khứ, một cách chính thức, bằng lịch sử; hoặc một cách không chính thức, bằng ký ức, từ ký ức cá nhân đến ký ức tập thể. Nhưng không ai thay đổi được quá khứ. Càng không cần phải chống lại quá khứ. Những điều ấy khác nhau.

Chúng ta chống lại chế độ độc tài tại Việt Nam vì nó ĐANG chà đạp lên quần chúng, ĐANG làm cho đất nước bị phá sản trên mọi phương diện, từ kinh tế đến giáo dục, từ ý thức đạo đức đến cả lòng tự hào dân tộc, từ các giá trị truyền thống đến tinh thần hiện đại với những giá trị về dân chủ và nhân quyền vốn đang, cùng với xu hướng toàn cầu hoá, càng ngày càng trở thành phổ quát, ĐANG kiềm hãm sự phát triển của đất nước khiến Việt Nam, một dân tộc vốn rất nhiều năng lực, bị thua kém không những các nước được xem là những con rồng của châu Á mà còn có nguy cơ thua cả một quốc gia vốn bị rất nhiều tai tiếng, như Miến Điện.

Và chúng ta cũng chống lại chế độ ấy vì, với sự nhu nhược của nó, Việt Nam có nguy cơ bị biến thành một tỉnh lẻ của Trung Quốc.

Cuối cùng, có một điểm cần được nói thêm: Ở Tây phương, ngay trong thời Chiến tranh lạnh, nghĩa là lúc chế độ Cộng sản vẫn còn rất mạnh, nhiều chiến lược gia và trí thức, đặc biệt ở châu Âu, đã chuyển khẩu hiệu “chống Cộng” (anti-communism) thành “chống toàn trị” (anti-totalitarianism). Dưới khẩu hiệu chống toàn trị, người ta không những chống lại chế độ Cộng sản mà còn chống lại cả chế độ phát xít, đồng thời người ta cũng khẳng định được lập trường của họ một cách rõ ràng: Việc chống đối ấy, thứ nhất, không nhắm vào một lý thuyết mà nhắm vào một chế độ với những guồng máy và chính sách cụ thể; và thứ hai, không nhằm bảo vệ hay bênh vực cho chủ nghĩa tư bản mà là để bảo vệ dân chủ và nhân quyền, những lý tưởng vừa có tính phổ quát vừa dễ được mọi người đồng thuận.

Cả tính phổ quát và sự đồng thuận ấy tạo nên sức mạnh cho cuộc tranh đấu, cuối cùng, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa như một hệ thống độc tài đáng kinh tởm (9).

***

Chú thích:
  1. Trên một số bản kiến nghị lưu hành trên internet, tôi thấy có tên “Nguyễn Hưng Quốc” ở Úc. Đó không phải là tôi. Có thể chỉ là trùng tên hoặc là một sự giả mạo. Bản thân tôi thì chưa từng ký vào bất cứ một kiến nghị nào cả.
  2. Richard Pipes (2003), Communism, a History, New York: Random House, tr. 147.
  3. Như trên.
  4. Do Jonathan Murphy và Mark Kramer dịch sang tiếng Anh, Harvard University Press, 1999.
  5. Xem Stathis N. Kalyvas (1999), “The decay and breakdown of communist one-party systems”, Annu, 1999, tr. 329.
  6. Stéphane Courtois và nhiều người khác (biên tập) (1999), The Black Book of Communism: Crimes, Terror, Repression, Cambridge: Havcard University Press, tr. 7.
  7. Leslie Holmes (1997), Post-Communism, an Introduction, Cambridge: Polity Press, tr. 13.
  8. Ghia Nodia (2000), “Chasing the meaning of ‘post-communsm’: a transitional phenomenon or something to stay?”, Contemporary European History, 9 (2000), tr. 278.
  9. Xem bài “From anti-communism to anti-totalitarianism: the radical potential of democray” của Dick Howard trên Government and Opposition số 37, 2002, tr. 551-572.

    * Blog của Tiến sĩ Nguyễn Hưng Quốc là blog cá nhân.. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hưng Quốc

Sunday, 1 July 2018

NAM HÀN RỒI SẼ RA SAO? NAM HAY BẮC HÀN LÀ CON CỪU NON???./-TCL

Mỹ chấm dứt 70 năm hiện diện quân sự ở thủ đô Seoul

Mỹ chính thức khánh thành trụ sở chỉ huy mới lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc ở trại Humphreys, cách Seoul 70 km về phía Nam, cách xa hơn tầm bắn pháo Triều Tiên.
Mỹ ngày 29-6 chính thức chấm dứt hiện diện quân sự ở thủ đô Seoul (Hàn Quốc), di chuyển lực lượng này đến một trụ sở chỉ huy mới ở trại Humphreys, cách Seoul 70 km về phía Nam, cách xa tầm bắn pháo Triều Tiên hơn.
Quyết định này đến trong bối cảnh bán đảo Triều Tiên đang trong bầu không khí hòa giải, dù việc di dời đã được lên kế hoạch từ trước. Phần lớn binh sĩ Mỹ đã được chuyển đến trụ sở chỉ huy mới, phía Mỹ cho biết số còn lại sẽ được hoàn tất chuyển đi đến cuối năm nay.
Trụ sở chỉ huy mới của Lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Mỹ mở trụ sở chỉ huy ở quận Yongsan, trung tâm Seoul, từ khi những binh sĩ Mỹ đầu tiên có mặt ở Hàn Quốc cuối Chiến tranh thế giới thứ hai.
Binh sĩ Mỹ trong buổi lễ khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Thực ra từ cuối thế kỷ 19 đã có nhiều lực lượng nước ngoài hiện diện ở quận Yongsan. Lính Trung Quốc từng xem nơi này như căn cứ của mình khi đến hỗ trợ đàn áp một cuộc nổi dậy năm 1882. Quân Nhật cũng hiện diện ở Yongsan trong thời gian thực dân hóa bán đảo Triều Tiên 1910-1945. Kế sau đó là lính Mỹ.
Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Song Young-moo (không đội mũ) và tướng Vincent Brooks (đi sau),Chỉ huy Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc, lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc, Bộ Tư lệnh các lực lượng phối hợp, đến tham dự lễ khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Phần lớn lính Mỹ đã rút đi năm 1949 nhưng quay trở lại năm sau đó và sát cánh cùng Hàn Quốc trong cuộc chiến ba năm với Triều Tiên. Năm 1957, Mỹ chính thức lập bộ chỉ huy ở Yongsan.
Binh sĩ Mỹ bắn đại bác trong buổi lễ khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Trụ sở chỉ huy Yongsan được xem là biểu tượng của liên minh Mỹ-Hàn, tuy nhiên việc đơn vị này nằm ở vùng đất vàng của Seoul từ lâu đã gây nhiều tranh cãi. Khu đất này sẽ được giao về cho chính phủ Hàn Quốc và khả năng sẽ được xây dựng thành một công viên.
Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Song Young-moo (thứ ba từ trái sang)và tướng Vincent Brooks (thứ ba từ phải sang) cắt băng khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Nằm ở TP cảng Pyeongtaek thuộc tỉnh Gyeonggi, trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc rộng 1.420 ha, chi phí xây dựng lên tới gần 11 tỉ USD, là căn cứ lớn nhất ở nước ngoài của quân đội Mỹ. Hàn Quốc chịu tới 90% chi phí xây dựng.
Thành viên Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc tham dự buổi lễ khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
“Trụ sở chỉ huy mới này nằm trong khu phức hợp căn cứ xung quanh, được xem là sự đầu tư có ý nghĩa lớn với sự hiện diện lâu dài của quân đội Mỹ tại Hàn Quốc” - tướng Vincent Brooks, Chỉ huy lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc, phát biểu trong buổi lễ khánh thành ngày 29-6.
Tướng Vincent Brooks, Chỉ huy Bộ Tư lệnh Liên Hiệp Quốc, lực lượng Mỹ tại Hàn Quốc, Bộ Tư lệnh các lực lượng phối hợp, phát biểu tại lễ khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc ngày 29-6. Ảnh: AP
Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in cũng gửi thông điệp đến buổi lễ, rằng trụ sở chỉ huy mới là phần quan trọng trong liên minh Mỹ-Hàn.
Việc di dời này là một phần kế hoạch của Mỹ sắp xếp lại 28.500 binh sĩ và căn cứ của mình ở Hàn Quốc vào hai khu vực chính: một ở TP Pyeongtaek và một ở TP Daegu. Nhiều quan chức Mỹ nói muốn di dời căn cứ Mỹ ra khỏi các khu vực đông dân cư để thuận lợi tăng tính sẵn sàng chiến đấu.
“Chiến tranh hiện đại chủ yếu nhờ vào sự tập trung và triển khai lực lượng nhanh chóng, về điều này Pyeongtaek có nhiều lợi thế vì có nhiều hướng trống, không như Yongsan nằm giữa trung tâm dân cư” - Giáo sư an ninh Yun Ji-won tại Đại học Pyeongtaek nhận định.
Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Song Young-moo phát biểu khánh thành trụ sở chỉ huy mới của lực lượng Mỹ ở Hàn Quốc tại trại Humphreys ở TP Pyeongtaek, thuộc tỉnh Gyeonggi, Hàn Quốc, ngày 29-6. Ảnh: AP
Quyết định này cũng đưa lực lượng Mỹ khỏi tầm bắn của hàng trăm khẩu pháo của Triều Tiên được đặt sẵn nhắm vào thủ đô Seoul, dù trại Humphreys vẫn nằm trong tầm ngắm của các loại vũ khí mới hơn của Triều Tiên như súng cỡ nòng 300 mm Triều Tiên trình làng năm 2015.
ĐĂNG KHOA