Lịch Sử Gia Long
LỊCH SỬ TRƯỜNG NỮ TRUNG HỌC GIA LONG SAIGON
Cô Giám Học Nguyễn Ngọc Anh

Cây có gốc mới trổ cành sanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Trường ta nguồn gốc tại đâu ?
Gia Long ngày nay
Xuất phát từ ý định tha thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, một số nhân sĩ tâm huyết và tiến bộ đã khẩn thiết gửi đơn xin chánh phủ lập một trường Sơ Học Cao Đẳng riêng biệt cho nữ sinh. Năm 1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh phí để thực hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, cách đây gần 86 năm, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được xây dựng trên một khu đất rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên là đường Phan Thanh Giản.
Hai năm sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Roume và Thống Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể này, ban tổ chức đã chọn màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng trưng đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhượng của người thiếu nữ Việt Nam.
Từ đó, trường thường được gọi là “Trường Áo Tím”.
Ngày khai trường có bốn mươi hai nữ sinh. Các học sinh đầu tiên của Trường thuộc những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần, có nhiều học sinh từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
Trường có từ lớp Đồng Ấu (Enfantin) tới lớp Cao Đẳng (Superieur). Vào năm cuối học sinh thi lấy bằng Sơ Học (CEP).
Trong những năm 1917 – 1922, dãy thứ hai được xây cất song song với dãy phía trước. Các phòng trên lầu được dùng làm phòng ngũ nội trú. Cách một sân cỏ, là một dãy nhà sau, thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh, phòng giặt và xếp quần áo học sinh nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành Ban Trung Học Nữ Học Đường. Tấm bảng đá cẩm thạch với hàng chữ đen Collège de Jeunes Filles Indigènes được gắn trước cổng trường. Tuy nhiên tên này ít được biết đến và danh hiệu trường Áo Tím vẫn được thông dụng hơn.
Bà Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên đến lớp đệ tứ niên, chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ Học và trúng tuyển qua một kỳ thi.
Lúc đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất niên thì học ban Sư Phạm, sau bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai ban đều học một chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt đầu học Pháp Văn. Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ Việt Ngữ.
Trong trường học sinh bị bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu phạt một hay hai xu. Nhưng hình phạt không mấy khi thi hành.
Năm 1926, nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng từ Nam chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh trường Áo Tím nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị bắt và phải đuổi khỏi trường.
Năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè. Đầu năm học 1941-1942 các nữ sinh tạm chuyển qua học ở trường Đồ Chiểu (Tân Định).
Năm 1949, trường xây thêm dãy lầu đường Bà Huyện Thanh Quan để đáp ứng số học sinh ngày một tăng.
Niên khóa 1950-1951, là một năm đáng nhớ. Lần đầu tiên trong lịch sử trường Áo Tím được đặt dưới quyền điều hành của một nữ Hiệu Trưởng Việt Nam. Cô Nguyễn thị Châu cũng là cựu nữ sinh Nữ Học Đường. Cô Châu từ trần năm 1996 tại Pháp.
Năm 1952, chương trình Việt Ngữ được áp dụng thay thế dần chương trình Pháp và Pháp Việt. Từ đây học sinh bắt đầu có giờ sinh ngữ Anh, Pháp.
Năm 1953, đồng phục tím được thay thế bằng đồng phục trắng với phù hiệu bông Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long được thêu trên vải.


Về sau Chánh phủ ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở của người Việt. Tên trường được gọi là Nữ trung học Gia Long. Trên bước đường phát triển, trường xây thêm: Thư Viện (1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966), hồ bơi (1968).
Năm 1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư ngụ cho các học sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả năm mươi lăm lớp học từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp 8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả một trăm lớp học. Vào khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ Thất mỗi năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười ngàn thí sinh. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm ngàn nữ sinh.
Từ năm 1975, trường đã bị đổi tên. Nhưng với tất cả chúng ta,trường vẫn là trường Gia Long yêu quý. Cũng như Sài Gòn vẫn mãi mãi là Sài Gòn, trong trái tim, trong nguồn nhớ không nguôi của một người dân Việt.
Danh Sách Các Vị Cựu Hiệu Trưởng (từ lúc sáng lập cho tới năm 1975)
– Cô Lagrange 1914-1920
– Cô Lorenzi 1920-1922
– Cô Pascalini 1922-1926
– Cô Saint Marty 1926-1942
– Cô Fourgeront 1942-1945
– Cô Malleret 1945-1947
– Cô Dubois 1947-1950
– Cô Nguyễn Thị Châu 1950-1952
– Cô Huỳnh Hữu Hội 1952-1963
– Cô Nguyễn Thu Ba 1963-1964
– Cô Trần Thị Khuê 1964-1965
– Cô Trần Thị Tỵ 1965-1969
– Cô Phạm Văn Tất 1969-1975
(trích giai phẩm Gia Long Nam California 2000)
Cô Giám Học Nguyễn Ngọc Anh

Cây có gốc mới trổ cành sanh ngọn
Nước có nguồn mới bể rộng sông sâu
Trường ta nguồn gốc tại đâu ?

Xuất phát từ ý định tha thiết muốn xây dựng một nền giáo dục cho nữ giới, một số nhân sĩ tâm huyết và tiến bộ đã khẩn thiết gửi đơn xin chánh phủ lập một trường Sơ Học Cao Đẳng riêng biệt cho nữ sinh. Năm 1909, đơn đã được Hội Đồng Quản Hạt chấp thuận nhưng chưa có kinh phí để thực hiện. Mãi đến ngày 6 tháng 11 năm 1913, cách đây gần 86 năm, lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng trường Nữ Học Đường Sài Gòn mới được cử hành. Trường được xây dựng trên một khu đất rộng ở đường Legrand de la Liraye, sau đổi tên là đường Phan Thanh Giản.
Hai năm sau, ngày 19 tháng 10 năm 1915, Toàn Quyền Roume và Thống Đốc Courbell làm khánh thành. Trong buổi lễ trọng thể này, ban tổ chức đã chọn màu tím làm màu áo đồng phục cho nữ sinh, tượng trưng đức tính đoan trang, kín đáo và khiêm nhượng của người thiếu nữ Việt Nam.
Từ đó, trường thường được gọi là “Trường Áo Tím”.
Ngày khai trường có bốn mươi hai nữ sinh. Các học sinh đầu tiên của Trường thuộc những gia đình sống ở Sài Gòn và các vùng phụ cận. Dần dần, có nhiều học sinh từ các tỉnh lên học nên Trường bắt đầu có nội trú.
Trường có từ lớp Đồng Ấu (Enfantin) tới lớp Cao Đẳng (Superieur). Vào năm cuối học sinh thi lấy bằng Sơ Học (CEP).
Trong những năm 1917 – 1922, dãy thứ hai được xây cất song song với dãy phía trước. Các phòng trên lầu được dùng làm phòng ngũ nội trú. Cách một sân cỏ, là một dãy nhà sau, thấp, sát với vách tường rào. Ở đó có bệnh thất, các lớp nữ công gia chánh, phòng giặt và xếp quần áo học sinh nội trú, cuối cùng là nhà bếp.
Tháng 9 năm 1922, Toàn Quyền Albert Sarraut cắt băng khánh thành Ban Trung Học Nữ Học Đường. Tấm bảng đá cẩm thạch với hàng chữ đen Collège de Jeunes Filles Indigènes được gắn trước cổng trường. Tuy nhiên tên này ít được biết đến và danh hiệu trường Áo Tím vẫn được thông dụng hơn.
Bà Lagrange, vợ một ông Chánh Tham Biện người Pháp, được bổ nhiệm làm Hiệu Trưởng ban trung học. Trường mở từ lớp đệ thất niên đến lớp đệ tứ niên, chỉ thu nhận nữ sinh có bằng Sơ Học và trúng tuyển qua một kỳ thi.
Lúc đầu, các nữ sinh đậu vào lớp đệ nhất niên thì học ban Sư Phạm, sau bốn năm ra làm giáo viên. Hoặc theo ban Phổ Thông. Cả hai ban đều học một chương trình để tốt nghiệp lấy bằng Thành Chung (DEPSI).
Từ lớp Dự Bị (Préparatoire) tức là lớp Hai bây giờ, học sinh đã bắt đầu học Pháp Văn. Ban Trung Học hoàn toàn được giảng dạy bằng tiếng Pháp. Mỗi tuần chỉ có hai giờ Việt Ngữ.
Trong trường học sinh bị bắt buộc phải nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp. Mỗi lần bị bắt gặp nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt, phải chịu phạt một hay hai xu. Nhưng hình phạt không mấy khi thi hành.
Năm 1926, nhân đám tang cụ Phan Chu Trinh, một phong trào bãi khóa lan rộng từ Nam chí Bắc để tỏ lòng thương tiếc nhà cách mạng lão thành. Học sinh trường Áo Tím nhiệt liệt hưởng ứng đưa đến kết quả một vài nữ sinh bị bắt và phải đuổi khỏi trường.
Năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng trường trong lúc học sinh nghỉ hè. Đầu năm học 1941-1942 các nữ sinh tạm chuyển qua học ở trường Đồ Chiểu (Tân Định).
Năm 1949, trường xây thêm dãy lầu đường Bà Huyện Thanh Quan để đáp ứng số học sinh ngày một tăng.
Niên khóa 1950-1951, là một năm đáng nhớ. Lần đầu tiên trong lịch sử trường Áo Tím được đặt dưới quyền điều hành của một nữ Hiệu Trưởng Việt Nam. Cô Nguyễn thị Châu cũng là cựu nữ sinh Nữ Học Đường. Cô Châu từ trần năm 1996 tại Pháp.
Năm 1952, chương trình Việt Ngữ được áp dụng thay thế dần chương trình Pháp và Pháp Việt. Từ đây học sinh bắt đầu có giờ sinh ngữ Anh, Pháp.
Năm 1953, đồng phục tím được thay thế bằng đồng phục trắng với phù hiệu bông Mai Vàng. Sau cùng là huy hiệu với tên trường Gia Long được thêu trên vải.


Về sau Chánh phủ ra lệnh dùng tiếng Việt trong mọi cơ sở của người Việt. Tên trường được gọi là Nữ trung học Gia Long. Trên bước đường phát triển, trường xây thêm: Thư Viện (1965), phòng Thí Nghiệm Lý Hóa (1966), hồ bơi (1968).
Năm 1964 trường bỏ nội trú. Những dãy lầu từng được dùng làm nơi cư ngụ cho các học sinh nội trú được sửa thành lớp học. Buổi sáng có tất cả năm mươi lăm lớp học từ đệ Tứ đến đệ Nhất (lớp 9 đến lớp 12). Buổi chiều có tất cả bốn mươi lăm lớp từ đệ Thất đến đệ Ngũ (lớp 6 đến lớp 8). Tổng công sáng chiều trường có tất cả một trăm lớp học. Vào khoảng thập niên bảy mươi, kỳ thi tuyển vào đệ Thất mỗi năm có chừng bảy trăm nữ sinh trúng tuyển trong số hơn mười ngàn thí sinh. Trường có độ hai trăm giáo sư và năm ngàn nữ sinh.
Từ năm 1975, trường đã bị đổi tên. Nhưng với tất cả chúng ta,trường vẫn là trường Gia Long yêu quý. Cũng như Sài Gòn vẫn mãi mãi là Sài Gòn, trong trái tim, trong nguồn nhớ không nguôi của một người dân Việt.
Danh Sách Các Vị Cựu Hiệu Trưởng (từ lúc sáng lập cho tới năm 1975)
– Cô Lagrange 1914-1920
– Cô Lorenzi 1920-1922
– Cô Pascalini 1922-1926
– Cô Saint Marty 1926-1942
– Cô Fourgeront 1942-1945
– Cô Malleret 1945-1947
– Cô Dubois 1947-1950
– Cô Nguyễn Thị Châu 1950-1952
– Cô Huỳnh Hữu Hội 1952-1963
– Cô Nguyễn Thu Ba 1963-1964
– Cô Trần Thị Khuê 1964-1965
– Cô Trần Thị Tỵ 1965-1969
– Cô Phạm Văn Tất 1969-1975
(trích giai phẩm Gia Long Nam California 2000)
Một Thuở Học Trò

Thưa quý anh chị, Chúng ta ai cũng có một thời tuổi thư sinh đáng yêu
đáng quý để mà thương tiếc ngậm ngùi mỗi khi nhìn các bé thơ đi học.
Rồi đây chúng cũng sẽ giống như ta, hết học lớp tiểu học, trung học, đại
học v..v.. tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dòng đời vẫn trôi
chảy, tình trần thì vẫn bao la nhưng cuộc đời thì vẫn quá ngắn, bạn bè
ngày một xa dần.
Nhân mùa tưụ trường, người viết nhìn bé thơ đi học, xúc cảnh sinh tình nhớ lại những ngày đi học ở trường nữ trung học Gia Long ngày cũ nơi quê mẹ Việt Nam và nơi các trường học xứ Mỹ. Người viết lục soạn hình ảnh cũ để viết tâm tình và thực hiện youtube Một Thuở Học Trò này để chia xẻ tâm tình với bạn bè thân mến. Hy vọng một duyên may nào đó, các bạn cũ ngày xưa đọc và xem được tâm tình này thì vui quá.
Mong nhận được sự cảm thông của quý bạn cùng một tâm tư như Sương Lam.
Chúc an vui và hạnh phúc
Sương Lam
Một Thuở Học Trò
Đây là bài thứ ba trăm ba mươi tám (338) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.
Hằng năm sau ngày Lễ Lao Động Tháng Chín ở xứ Mỹ là ngày học trò trở lại trường sau 3 tháng nghỉ hè. Ba tháng hè trôi nhanh quá! Mới nghỉ hè hồi tháng Sáu thì lại tựu tường vào tháng Chín. Nghỉ hè ở nhà chơi chưa đã! Nhiều cô cậu học trò than thở và người viết cũng thế khi trở lại đời học trò nơi xứ Mỹ 35 năm về trước. Smile!
Rời bỏ quê hương ra đi với hai bàn tay trắng, vợ chồng chúng tôi bắt đầu xây dựng lại đời sống mới với con số không to tướng vì tất cả những gì chúng tôi có được đã để lại ở Việt Nam. Cái sinh mạng “kiếp thuyền nhân” của chúng tôi, sau bao nhiêu ngày nổi trôi trên sóng biển, đến được bến bờ tự do này một cách an toàn, quả là “hồng phúc tề thiên” rồi thì nhầm nhò gì cái chuyện trở lại học đường học thêm một ngôn ngữ mới, học thêm một nghề nghiệp mới để mà sinh sống tự do, thoải mái nơi quê hương thứ hai này.
Thế là hai người “tuổi huờm huờm” (theo cách nói của BS Đỗ Hồng Ngọc) là vợ chồng chúng tôi, lúc đó trên dưới 30 tuổi và một người “tuổi con nít” là cậu công tử nhà chúng tôi, lúc đó mới 8 tuổi, phải học tập viết, tập đọc tiếng Mỹ nơi trường học và làm bài tập ở nhà. Mạnh cha, mạnh mẹ, mạnh con, ai lo chuyện nấy, ráng “cố công mài sắt” để hy vọng “có ngày nên kim”. Hy vọng vẫn vươn lên! Smile!
Phu quân của người viết là gia trưởng trụ cột gia đình nên vừa đi học ban ngày vừa đi làm “janitor” ban đêm để kiếm thêm tiền trả tiền nhà, tiền bill đủ thứ phụ vào tiền “basic grant” và tiền “ work study” ít ỏi. Người viết và cậu bé “tí hon đang lúc tuổi còn non” 8 tuổi kia thỉnh thoảng đi theo phụ giúp chàng. Người viết “sợ ma muốn chết” vì ban đêm thanh vắng, một mình trong cái sở bưu điện rộng lớn thênh thang, người viết vừa đổ các thùng rác vừa run vì cảm tưởng có ai đang đứng đằng sau cánh cửa đang giương mắt nhìn tôi. Thế là sau mấy ngày theo “chàng đâu thiếp đó” cùng nhau làm janitor, người viết lặn luôn ở nhà để được “peace of mind” một tí cho rồi.
Đi học ở cái tuổi hườm hưòm này không phải là chuyện dể dàng vì tôi có đủ thứ chuyện phải chăm lo: lo cơm nước cho gia đình, lo lắng cho cha mẹ già còn ở lại Việt Nam, lo sợ con trẻ kết bạn với bạn xấu, lo học hành không đủ điểm sẽ bị mất Basic Grant, lo không đủ tiền thanh toán tiền nhà, tiền bill v…v… Mệt quá!
Cũng may nhờ trời thương nên vợ chồng chúng tôi đã vượt qua những trở ngại này.
Phu quân người viết thì vừa đi học vừa đi làm cũng luợm được văn bằng lận lưng để đi kiếm job. Chàng đi làm cho đến ngày đủ tuổi về hưu thì nghỉ ở nhà làm vườn cắt cỏ sân trước vườn sau nhà chúng tôi xem như là tập thể dục cũng tốt thôi.
Người viết thì ham vui, ham học nên cũng “dấn bưóc thăng trầm” hết “đại học trường làng” Portland Community College, rồi đến “đại học trường tỉnh” Portland State University, xong rồi đi làm ở sở học chánh Portland cho vui với đám học trò con nít đủ 20 năm thì “cáo lão về hưu”. Người viết nghỉ hưu ở nhà làm “bà mẹ quê” nấu cơm hầu chồng, hầu cháu nội và làm những gì mình thích mà không hại ai là được rồi, phải không Bạn?
Cậu công tử nhà chúng tôi thì cũng tốt nghiệp kỷ sư đại học Oregon State University năm 1993.
Như thế là đủ rồi, chúng tôi không mong ưóc gì hơn là có đầy đủ sức khỏe và tinh thần tráng kiện để làm được những việc thiện lành nho nhỏ là tốt rồi!
Thôi thì ngưi viết bắt chước nhà thơ Nguyễn Công Trứ ngâm nga:
“Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn”
Cũng vui thay!
Nhà ở chúng tôi không to lớn rộng rãi, không trưng bày đồ đạc sang trọng mà chỉ là một ngôi nhà nho nhỏ với “hoa vàng trước ngõ, khóm trúc bên hiên” đúng theo mộng ước của người viết thời con gái lắm mộng mơ, mãi cho đến bây giờ tôi có thể thực hiện được nơi xứ người rồi. Đúng là Ý Trời! Ý Trời!
Xin cảm tạ Phật Trời đã gia hộ và cha mẹ đã phù hộ cho chúng con.

Khi ngồi viết bài cho mục Một Cõi Thiền Nhàn hằng tuần cho Oregon Thời Báo để góp vui với quý vị cao niên và độc giả ở Portland, Oregon, người viết nghĩ rằng hình như đời sống của chúng ta đều gắn liền với những con số.
Khi mới sinh ra đời, nhiều người hỏi đứa bé mới sinh nặng bao nhiêu ký lô theo kiểu Việt Nam hoặc nặng bao nhiêu pounds theo kiểu Mỹ.
Rồi đứa bé biết lật, biết trườn, biết bò, biết nói, biết đi, biết chạy tương hợp với các số tuổi nào đó.
Rồi đứa bé phải đi học lớp mẫu giáo 1 năm, lớp tiểu học 5 năm, lớp trung học 7 năm, lớp đại học 4 năm hay nhiều năm hơn nữa tuỳ ngành nghề chọn lựa.
Bây giờ đứa bé đã trở thành người vị thành niên. Cha mẹ phải lo dựng vợ gả chồng cho các cô cậu chứ lị. Gia đình lúc đầu chỉ có “hai đứa chúng mình thôi nhé” nhưng dần dần đưọc gia tăng nhân số với những các cô cậu bé con ra đời. Bây gìờ mỗi gia đình chỉ mong sinh 2 con mà thôi chứ không dám sinh đủ “chục có đầu 10 hay 12” như gia đình các thế hệ truớc với quan niệm “trời sinh trời dưỡng” vì bây giờ lo cho tụi nhỏ ăn học tới nơi tới chốn cũng mệt “ná thở” rồi!
Rồi thời gian qua, các cô cậu bé con ngày xưa trở thành các vị trung niên trên 40 tuổi và trở thành quý cụ cao niên trên 65 tuổi. Bây gìờ đã tới lúc bạn có thể trở thành ông bà nôi, ngoại đưa đón cháu đi học rồi như nhà thơ Trần Mộng Tú tâm sự dưới đây
Đưa Cháu Ngày Khai Trường
Bà cúi xuống hôn thằng bé lên năm
Nói với cháu ngày đầu tiên đi học
Ngoan nhé con đôi mắt xanh trong vắt
Bà động lòng nhớ mắt mẹ con xưa
Mấy chục năm trời sáng nắng chiều mưa
Bà đếm đời mình qua những cổng trường trước mặt
Những sáng đầu thu mùi cỏ thơm mặt đất
Nhìn mẹ con Bà nhớ quãng đời mình
Sách vở tuổi đời theo gió cuốn qua nhanh
Những thành phố những con đường mất dấu
Khi thả rơi tiếng cười khi nhặt lên tiếng khóc
Những dòng sông thầm lặng xẻ chia
Những ngọn núi cong mình còn đứng nơi kia
Đã làm chứng ngày đầu tiên Bà đến tựa
Ngày nào đó lớn lên con sẽ hiểu những người xa xứ
Cuộc đời buồn vui dẫu có kết thúc thế nào
Mỗi khi kỷ niệm chạy về lòng vẫn hư hao
Như vết thương xưa bỗng một hôm ửng đỏ
Đưa cháu đến trường lòng Bà như trẻ lại
Bà đứng đây như thấy suốt con đường
Những con đường yêu dấu ở quê hương
Những ngôi trường những mùa thu những ngày nhập học
Bà đứng đây gió về trong tóc
Giơ tay gầy vuốt xuống vốc thời gian
Ngoan nhé con yêu bạn trọng thầy
Ép cho chặt tuổi mình trong sách học
Trường học trường đời thênh thang trước mặt
Bàn chân son con bước giữa bình minh.
(Nguồn: Thơ Trần Mộng Tú -Tháng 8/30/2016
Cám ơn Hoạa sĩ Tống Phước Cường chuyển chia xẻ)
Nhân mùa tưụ trường, người viết nhìn bé thơ đi học, xúc cảnh sinh tình nhớ lại những ngày đi học ở trường nữ trung học Gia Long ngày cũ nơi quê mẹ Việt Nam và nơi các trường học xứ Mỹ. Người viết lục soạn hình ảnh cũ để viết tâm tình và thực hiện youtube Một Thuở Học Trò này để chia xẻ tâm tình với bạn bè thân mến. Hy vọng một duyên may nào đó, các bạn cũ ngày xưa đọc và xem được tâm tình này thì vui quá.
Mong nhận được sự cảm thông của quý bạn cùng một tâm tư như Sương Lam.
Chúc an vui và hạnh phúc
Sương Lam
Một Thuở Học Trò
Đây là bài thứ ba trăm ba mươi tám (338) của người viết về chủ đề Thiền Nhàn trong khu vườn Một Cõi Thiền Nhàn của trang văn nghệ Oregon Thời Báo.
Hằng năm sau ngày Lễ Lao Động Tháng Chín ở xứ Mỹ là ngày học trò trở lại trường sau 3 tháng nghỉ hè. Ba tháng hè trôi nhanh quá! Mới nghỉ hè hồi tháng Sáu thì lại tựu tường vào tháng Chín. Nghỉ hè ở nhà chơi chưa đã! Nhiều cô cậu học trò than thở và người viết cũng thế khi trở lại đời học trò nơi xứ Mỹ 35 năm về trước. Smile!
Rời bỏ quê hương ra đi với hai bàn tay trắng, vợ chồng chúng tôi bắt đầu xây dựng lại đời sống mới với con số không to tướng vì tất cả những gì chúng tôi có được đã để lại ở Việt Nam. Cái sinh mạng “kiếp thuyền nhân” của chúng tôi, sau bao nhiêu ngày nổi trôi trên sóng biển, đến được bến bờ tự do này một cách an toàn, quả là “hồng phúc tề thiên” rồi thì nhầm nhò gì cái chuyện trở lại học đường học thêm một ngôn ngữ mới, học thêm một nghề nghiệp mới để mà sinh sống tự do, thoải mái nơi quê hương thứ hai này.
Thế là hai người “tuổi huờm huờm” (theo cách nói của BS Đỗ Hồng Ngọc) là vợ chồng chúng tôi, lúc đó trên dưới 30 tuổi và một người “tuổi con nít” là cậu công tử nhà chúng tôi, lúc đó mới 8 tuổi, phải học tập viết, tập đọc tiếng Mỹ nơi trường học và làm bài tập ở nhà. Mạnh cha, mạnh mẹ, mạnh con, ai lo chuyện nấy, ráng “cố công mài sắt” để hy vọng “có ngày nên kim”. Hy vọng vẫn vươn lên! Smile!
Phu quân của người viết là gia trưởng trụ cột gia đình nên vừa đi học ban ngày vừa đi làm “janitor” ban đêm để kiếm thêm tiền trả tiền nhà, tiền bill đủ thứ phụ vào tiền “basic grant” và tiền “ work study” ít ỏi. Người viết và cậu bé “tí hon đang lúc tuổi còn non” 8 tuổi kia thỉnh thoảng đi theo phụ giúp chàng. Người viết “sợ ma muốn chết” vì ban đêm thanh vắng, một mình trong cái sở bưu điện rộng lớn thênh thang, người viết vừa đổ các thùng rác vừa run vì cảm tưởng có ai đang đứng đằng sau cánh cửa đang giương mắt nhìn tôi. Thế là sau mấy ngày theo “chàng đâu thiếp đó” cùng nhau làm janitor, người viết lặn luôn ở nhà để được “peace of mind” một tí cho rồi.
Đi học ở cái tuổi hườm hưòm này không phải là chuyện dể dàng vì tôi có đủ thứ chuyện phải chăm lo: lo cơm nước cho gia đình, lo lắng cho cha mẹ già còn ở lại Việt Nam, lo sợ con trẻ kết bạn với bạn xấu, lo học hành không đủ điểm sẽ bị mất Basic Grant, lo không đủ tiền thanh toán tiền nhà, tiền bill v…v… Mệt quá!
Cũng may nhờ trời thương nên vợ chồng chúng tôi đã vượt qua những trở ngại này.
Phu quân người viết thì vừa đi học vừa đi làm cũng luợm được văn bằng lận lưng để đi kiếm job. Chàng đi làm cho đến ngày đủ tuổi về hưu thì nghỉ ở nhà làm vườn cắt cỏ sân trước vườn sau nhà chúng tôi xem như là tập thể dục cũng tốt thôi.
Người viết thì ham vui, ham học nên cũng “dấn bưóc thăng trầm” hết “đại học trường làng” Portland Community College, rồi đến “đại học trường tỉnh” Portland State University, xong rồi đi làm ở sở học chánh Portland cho vui với đám học trò con nít đủ 20 năm thì “cáo lão về hưu”. Người viết nghỉ hưu ở nhà làm “bà mẹ quê” nấu cơm hầu chồng, hầu cháu nội và làm những gì mình thích mà không hại ai là được rồi, phải không Bạn?
Cậu công tử nhà chúng tôi thì cũng tốt nghiệp kỷ sư đại học Oregon State University năm 1993.
Như thế là đủ rồi, chúng tôi không mong ưóc gì hơn là có đầy đủ sức khỏe và tinh thần tráng kiện để làm được những việc thiện lành nho nhỏ là tốt rồi!
Thôi thì ngưi viết bắt chước nhà thơ Nguyễn Công Trứ ngâm nga:
“Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn”
Cũng vui thay!
Nhà ở chúng tôi không to lớn rộng rãi, không trưng bày đồ đạc sang trọng mà chỉ là một ngôi nhà nho nhỏ với “hoa vàng trước ngõ, khóm trúc bên hiên” đúng theo mộng ước của người viết thời con gái lắm mộng mơ, mãi cho đến bây giờ tôi có thể thực hiện được nơi xứ người rồi. Đúng là Ý Trời! Ý Trời!
Xin cảm tạ Phật Trời đã gia hộ và cha mẹ đã phù hộ cho chúng con.
Khi ngồi viết bài cho mục Một Cõi Thiền Nhàn hằng tuần cho Oregon Thời Báo để góp vui với quý vị cao niên và độc giả ở Portland, Oregon, người viết nghĩ rằng hình như đời sống của chúng ta đều gắn liền với những con số.
Khi mới sinh ra đời, nhiều người hỏi đứa bé mới sinh nặng bao nhiêu ký lô theo kiểu Việt Nam hoặc nặng bao nhiêu pounds theo kiểu Mỹ.
Rồi đứa bé biết lật, biết trườn, biết bò, biết nói, biết đi, biết chạy tương hợp với các số tuổi nào đó.
Rồi đứa bé phải đi học lớp mẫu giáo 1 năm, lớp tiểu học 5 năm, lớp trung học 7 năm, lớp đại học 4 năm hay nhiều năm hơn nữa tuỳ ngành nghề chọn lựa.
Bây giờ đứa bé đã trở thành người vị thành niên. Cha mẹ phải lo dựng vợ gả chồng cho các cô cậu chứ lị. Gia đình lúc đầu chỉ có “hai đứa chúng mình thôi nhé” nhưng dần dần đưọc gia tăng nhân số với những các cô cậu bé con ra đời. Bây gìờ mỗi gia đình chỉ mong sinh 2 con mà thôi chứ không dám sinh đủ “chục có đầu 10 hay 12” như gia đình các thế hệ truớc với quan niệm “trời sinh trời dưỡng” vì bây giờ lo cho tụi nhỏ ăn học tới nơi tới chốn cũng mệt “ná thở” rồi!
Rồi thời gian qua, các cô cậu bé con ngày xưa trở thành các vị trung niên trên 40 tuổi và trở thành quý cụ cao niên trên 65 tuổi. Bây gìờ đã tới lúc bạn có thể trở thành ông bà nôi, ngoại đưa đón cháu đi học rồi như nhà thơ Trần Mộng Tú tâm sự dưới đây
Đưa Cháu Ngày Khai Trường
Bà cúi xuống hôn thằng bé lên năm
Nói với cháu ngày đầu tiên đi học
Ngoan nhé con đôi mắt xanh trong vắt
Bà động lòng nhớ mắt mẹ con xưa
Mấy chục năm trời sáng nắng chiều mưa
Bà đếm đời mình qua những cổng trường trước mặt
Những sáng đầu thu mùi cỏ thơm mặt đất
Nhìn mẹ con Bà nhớ quãng đời mình
Sách vở tuổi đời theo gió cuốn qua nhanh
Những thành phố những con đường mất dấu
Khi thả rơi tiếng cười khi nhặt lên tiếng khóc
Những dòng sông thầm lặng xẻ chia
Những ngọn núi cong mình còn đứng nơi kia
Đã làm chứng ngày đầu tiên Bà đến tựa
Ngày nào đó lớn lên con sẽ hiểu những người xa xứ
Cuộc đời buồn vui dẫu có kết thúc thế nào
Mỗi khi kỷ niệm chạy về lòng vẫn hư hao
Như vết thương xưa bỗng một hôm ửng đỏ
Đưa cháu đến trường lòng Bà như trẻ lại
Bà đứng đây như thấy suốt con đường
Những con đường yêu dấu ở quê hương
Những ngôi trường những mùa thu những ngày nhập học
Bà đứng đây gió về trong tóc
Giơ tay gầy vuốt xuống vốc thời gian
Ngoan nhé con yêu bạn trọng thầy
Ép cho chặt tuổi mình trong sách học
Trường học trường đời thênh thang trước mặt
Bàn chân son con bước giữa bình minh.
(Nguồn: Thơ Trần Mộng Tú -Tháng 8/30/2016
Cám ơn Hoạa sĩ Tống Phước Cường chuyển chia xẻ)

Vợ chồng người viết cũng đã từng đến trường Pre-school đón Mya đi học về trong 2 năm trời khi Mya học Pre-school. Người viết cũng đã đi làm thiện nguyện trong lớp Mẫu Giáo của Mya ở trường Montclair, Beaverton và đón cháu đi học về ở trạm xe bus trong 3 năm trời nên rất cảm thông tình thưong và tâm ý của thi sĩ Trần Mộng Tú qua bài thơ nói trên.
Mỗi lần đi làm thiện nguyện trong lớp mẫu giáo của cô cháu nội Mya tại trường tiểu học Montclair, tôi thấy lòng vui như mở hội vì được ngắm nhìn những ánh mắt ngây thơ, những nụ cười hồn nhiên của những cô cậu học trò tí hon này. Tôi thấy mình như sống lại tuổi ngây thơ ngày cũ khi cùng cười, cùng đùa vui với các em bé này.
Nếu bạn có điều gì phiền muộn, bực mình khi giao tiếp với “người lớn” trong gia đình hay ngoài xã hội, xin bạn hãy thử ghé qua một trường tiểu học gần nhà bạn nhất, rồi hãy lặng nhìn những học sinh đang chơi đùa trong sân trường hay lúc tan trường về, bạn sẽ thấy những phiền muộn đó tan biến theo tiếng cười vui vẻ, theo những bước chân nhảy nhót của các cô cậu bé tí hon này.
Rất giản dị, rất tầm thường nhưng sự hồn nhiên, vô tư của trẻ con sẽ đem đến cho bạn những nụ cười, những giây phút an bình đấy bạn ạ! Nếu bạn không tin người viết nói có đúng không thì xin làm thử một lần rồi sẽ biết. Vui lắm bạn ạ!
Trẻ thơ rất ngây thơ, hồn nhiên, nhân hậu qua câu chuyện dưới đây:
Tấm lòng trẻ thơ.
Một bà mẹ đơn thân vừa chuyển nhà, bà phát giác hàng xóm là một gia đình nghèo với bà góa và hai con. Một hôm bị cúp điện, bà đành thắp nến cho sáng. Lúc sau, có tiếng người gõ cửa, bà mở cửa ra…thì chính là con của hàng xóm. Đứa bé nói: “Kính chào Dì, Dì có thêm cây nến nào không?” Bà ta thầm nghĩ: “Gia đình này nghèo đến nỗi cả nến cũng không có ? Tốt nhất không cho,vì cứ cho như thế họ sẽ ỷ lại không chịu mua”.
Bà liền trả lời : “Không có!”. Đúng lúc bà ta đang đóng cửa, đứa bé cười và nói: “Con biết là nhà dì không nhiều nến..”. Nói xong, nó lấy trong túi 2 cây nến và thưa: “Mẹ con sợ dì sống một mình thiếu nến..và sai con đem tặng dì 2 cây vì cúp điện lâu lắm”… Bà ta vừa tự trách vừa cảm động rơi nước mắt ôm chặt đứa bé!
theo Blogtamsu
(Nguồn: email bạn gửi)
Một năm học mới lại bắt đầu, học sinh lại được học thêm những điều hay đẹp để mở mang kiến thức, để trở thành người hữu dụng cho chính bản thân mình, cho gia dinh, cho xã hội. cho quê hương đất nưóc.
Là Phật tử chúng ta phải luôn ghi nhớ lời dạy của chư Phật đã dạy như sau:
“Tránh các đìều ác
Làm các điều lành
Thanh Tịnh tâm ý
Lời chư Phật dạy”
Mời quý thân hữu thưởng thức Youtube Một Thuở Học Trò do người viét mới vừa thực hiện dưới đây
Youtube Một Thuở Học Trò
Xin chúc quý bạn có nhiều sức khỏe, thân tâm an lạc, sống vui từng ngày trong hiện tại với duyên nghiệp của mình nhé.
Người giữ vườn Một Cõi Thiền Nhàn
Sương Lam
(Tài liệu và hình ảnh sưu tầm trên mạng lưới internet, qua điện thư bạn gửi- MCTN 338-ORTB 746-9716)
No comments:
Post a Comment