BÀI NẦY ĐƯỢC ĐĂNG TRÊN BLOG QGHC ÚC CHÂU - DỊCH GIẢ LƯƠNG ĐỊNH VĂN (NHAN TỬ HÀ - HIỆN LÀ CHỦ TỊCH HỘI QGHC ÚC CHÂU) - Dịch mà không có ý kiến riêng là hoàn toàn tán đồng nội dung của bài viết đúng không Quý Huynh Trưởng QGHC? Ai dám cả gan khẳng định cho tựa đề nầy??? Ảo tưởng quá độ chăng?./-Mt68
Không, Tập Cận Bình Không Có Ý Tấn Công Đài Loan
Đối với một số nhà quan sát, Tập Cận Bình dường như đang muốn thống nhất Đài Loan với Trung Cộng .
Chủ tịch Trung Cộng đã nhiều lần khẳng định rằng điều này rất thiết yếu cho sứ mệnh hoàn thành “Giấc mơ Trung Hoa” trong việc phục hưng đất nước. Ông đã chỉ đạo quân đội Trung Cộng chuẩn bị sẵn sàng để chiếm Đài Loan bằng vũ lực vào năm 2027, nếu cần thiết, và Trung Cộng ngày càng tăng việc sử dụng lực lượng quân sự lớn mạnh của mình để đe dọa dân chúng Đài Loan phải khuất phục trước quyền lực của Trung Cộng. Tháng trước, họ đã tổ chức các cuộc tập trận hải quân quy mô lớn với sự tham gia của một hàng không mẫu hạm ở vùng biển phía đông Đài Loan và vài ngày sau đó đã điều động 103 phản lực cơ chiến đấu tới hòn đảo – một con số kỷ lục trong một ngày.

Nhưng tình hình sôi động này che giấu những mối hoài nghi lớn trong giới lãnh đạo Trung Cộng về việc liệu lực lượng Quân đội Giải phóng Nhân dân của họ vốn chưa được thử nghiệm có thể chiếm đóng và kiểm soát Đài Loan với cái giá có thể chấp nhận được hay không, những mối nghi ngờ đó rất có thể đã được củng cố bởi những thất bại về quân sự của Nga ở Ukraine. Theo như lập luận này, việc Quân đội Giải phóng Nhân dân ( QĐGPND) chiếm đóng Đài Loan không phải là điều chắc chắn và, ngay cả trong vài năm tới, vì điều này sẽ giúp Hoa Kỳ và Đài Loan có thời gian để tăng cường năng lực quân sự và ngăn chặn cuộc xung đột.
Các cuộc thanh trừng các tướng lĩnh cao cấp gần đây của Trung Cộng, bao gồm Bộ trưởng Quốc phòng và hai lãnh đạo giám sát kho vũ khí hạt nhân và phi đạn của quốc gia, cho thấy họ Tập thiếu tin tưởng vào khả năng chiến đấu của quân đội mình. Mặc dù lý do của việc cách chức trong nội các chưa được công bố nhưng các dấu hiệu cho thấy có thể có vấn đề tham nhũng và tác động của nó đối với sự sẵn sàng của quân đội. Nếu đúng như vậy, những sĩ quan đang bỏ tiền vào túi của mình, có thể đã không thực hiện nghiêm túc chỉ thị của họ Tập để chuẩn bị cho việc chiếm Đài Loan vào năm 2027. Họ Tập thường xuyên nhắc nhở QĐGPND cải thiện việc huấn luyện quân sự và củng cố nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.
Sự thất bại của Nga ở Ukraine là một tấm gương cảnh cáo đối với họ Tập. Lúc khởi đầu cuộc chiến, quân đội tinh nhuệ của Nga đã thất bại trong nhiệm vụ tương đối đơn giản là vượt biên giới trên đất liền để chiếm Kyiv. QĐGPND sẽ gặp khó khăn lớn hơn khi vượt qua eo biển Đài Loan. Một cuộc xâm lược đổ bộ trên quy mô lớn là một trong những hoạt động quân sự khó khăn nhất, cần phải có một ưu thế ở trên không và trên biển, cũng như khả năng duy trì lực lượng xâm lược trong một chiến dịch lâu dài.
Đối với họ Tập, sẽ có sự rủi ro lớn về chính trị rất nếu cuộc xâm lược không được hoàn tất một cách nhanh chóng với mức chi phí thấp. Tình trạng bế tắc kéo dài sẽ có thể xói mòn niềm xác quyết của ông ta rằng Trung Cộng đang trở nên hùng mạnh, gây trở ngại cho mục tiêu trẻ trung hóa đất nước và một lực lượng quân đội hùng mạnh của ông ta. Đối với Bắc Kinh điều đáng lo ngại hơn nữa là họ có thể sẽ bị đánh bại dưới tay một Đài Loan được trang bị hùng hậu, dũng cảm và kiên cường, được hỗ trợ bởi tiềm năng can thiệp của lực lượng Hoa Kỳ. Đó là một tình huống kính hoàng có thể làm suy yếu khả năng nắm giữ quyền lực của họ Tập và thậm chí đe dọa đến sự cai trị của Đảng Cộng sản.
Nhà lãnh đạo Trung Cộng cũng buộc phải nhận thức rõ mức tổn thất nặng nề mà Nga đã phải trả ở Ukraine: số thương vong quân sự ước tính gần 300.000 người và còn hơn thế nữa; nền kinh tế Nga suy yếu nghiêm trọng vì các lệnh chế tài quốc tế; sự tổn hại lớn lao đến uy tín toàn cầu của họ; và sự suy sụp nhanh chóng về sức mạnh quốc gia của Nga. Đây là thời điểm đầy rủi ro để họ Tập làm một quyết định nguy hiểm như vậy.
Nền kinh tế Trung Quốc đang phải đối diện với mức độ tăng trưởng chậm chạp hơn trong dài hạn. Điều này gia tăng mối lo ngại về sự bất mãn hoặc thậm chí sự bất ổn xã hội nếu chính phủ tiếp tục đặt ưu tiên cho việc kiểm soát an ninh và chính trị lên trên phúc lợi kinh tế. Hàng nghìn người biểu tình trên khắp đất nước để phản đối nỗi ám ảnh của họ Tập trong việc nắm chặt sự kiểm soát của ông ta vào cuối năm ngoái, xuống đường phản bác các chính sách nghiêm ngặt về Covid, và sau đó đã được dỡ bỏ. Một số người biểu tình đưa ra các yêu sách hiếm hoi trong việc đòi hỏi thay đổi chính trị, bao gồm cả việc loại bỏ họ Tập. Sự ủng hộ ở trong nước đối với một cuộc chiến tranh đẫm máu có thể xảy ra ở Đài Loan có thể không tồn tại lâu dài. Do chính sách một con hiện đã bị hủy bỏ của Trung Cộng, lực lượng vũ trang của nước này chủ yếu bao gồm những đứa con trai không có anh chị em. Cha mẹ của họ mong đợi những người lính đó sẽ nuôi dưỡng họ khi về già và có thể sẽ xuống đường nếu mức thương vong tăng cao.
Tuy nhiên, một yếu tố khác có thể kềm chế họ Tập là khả năng Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ Đài Loan. Sự ủng hộ của lưỡng đảng trong Quốc hội Hoa Kỳ đối với an ninh Đài Loan chưa bao giờ mạnh mẽ hơn và Tổng thống Biden đã nhiều lần nói rằng Hoa Kỳ sẽ hỗ trợ Đài Loan về mặt quân sự nếu Trung Cộng tấn công. Cuộc trao đổi của tôi với các chuyên gia Trung Cộng cho thấy Bắc Kinh tin tưởng chắc chắn rằng Hoa Kỳ coi Đài Loan là một thành trì chiến lược quan trọng trong việc kiềm chế Trung Quốc và sẽ can thiệp để ngăn chặn việc Trung Cộng chiếm đóng hòn đảo này.
Tuy nhiên, vẫn có những tình huống mà họ Tập có thể cảm thấy buộc phải hành động về quân sự. Nếu chính phủ Đài Loan trong tương lai tiến tới việc tuyên bố độc lập chính thức thông qua một cuộc trưng cầu dân ý hoặc sửa đổi hiến pháp, họ Tập có thể kết luận rằng những rủi ro về mặt chính trị nếu không hành động – đối với ông ta và Đảng Cộng sản – sẽ lớn hơn sự rủi ro về chiến tranh. Một động thái của Tổng thống hoặc Quốc hội Mỹ nhằm khôi phục sự công nhận ngoại giao đối với Đài Loan – hoặc việc quay trở lại Hiệp ước Quốc phòng mà nước này đã ký với Đài Bắc trước khi Hoa Kỳ chuyển sang công nhận ngoại giao với Trung Cộng vào năm 1979 – cũng có thể buộc hon Tập phải ra tay, ngay cả khi ông ta không tự tin vào sự thành công trên chiến trường.
Ngay cả khi không có một động cơ rõ ràng như trên, cuộc bầu cử vào tháng 1 sắp tới ở Đài Loan có thể đưa đến bốn, thậm chí tám năm cầm quyền nữa của Đảng Tiến bộ Dân chủ ủng hộ độc lập. Họ Tập có thể quyết định tấn công nếu ông bắt đầu cảm thấy Đài Loan ngày càng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của mình, đặc biệt nếu Hoa Kỳ tiếp tục tăng cường cho quân đội Đài Loan và các lực lượng của chính họ trong khu vực.
Nhưng trừ khi bị dồn vào chân tường, họ Tập có thể sẽ kết luận rằng mức rủi ro của một cuộc phiêu lưu thất bại về quân sự sẽ trở nên quá cao. Điều này đem lại một cơ hội mà Hoa Kỳ và Đài Loan cần phải tận dụng một cách khôn khéo.
Đài Loan cần phải đẩy nhanh tiến trình chuyển hướng qua việc đầu tư vào các khả năng phòng thủ để có thể tồn tại – và chứng tỏ một khả năng phản kháng chí tử – trước một cuộc tấn công tiềm tàng. Vì việc tiếp tế cho hòn đảo sẽ vô cùng khó khăn nếu cuộc xung đột bộc phát, nên hòn đảo phải nỗ lực nhiều hơn để trong việc dự trữ không chỉ đạn dược mà còn cả lương thực, nước và năng lượng. Đài Loan cần áp dụng chính sách quốc phòng bao gồm toàn thể xã hội, trong đó đề cao sức phản kháng, lòng kiên quyết và sẵn sàng chiến đấu của quốc gia.
Hoa Kỳ nên làm nhiều hơn nữa để giúp đỡ Đài Loan nhằm đạt được những mục tiêu này. Họ cũng cần tiếp tục nỗ lực tái cấu trúc vị thế quân sự của mình ở vùng Đông Á, bao gồm việc dàn trải các lực lượng quân sự Mỹ, khiến họ trở nên kiên cường hơn và trang bị các loại phi đạn tầm xa tân tiến vượt trội hơn vũ khí của Trung Cộng. Mục tiêu tổng quát của chiến lược quân sự Mỹ trong khu vực là nhằm ngăn chặn khả năng của Bắc Kinh đạt được một chiến thắng quân sự nhanh chóng với mức chi phí thấp ở Đài Loan.
Sau cùng, Hoa Kỳ cũng phải đưa ra những bảo đảm khả tín cho Bắc Kinh rằng chừng nào Trung Cộng còn kiềm chế việc sử dụng vũ lực với Đài Loan thì Hoa Thịnh Đốn sẽ không ủng hộ cho nền độc lập của hòn đảo này, cũng như không quay trở lại Hiệp Ước Phòng thủ trước đây với Đài Bắc. Những sự bảo đảm như thế có thể giúp tránh được chiến tranh.
Trong khi đó, những lời tuyên truyền đe dọa và động thái hung hăng của Trung Cộng không nên được coi như là dấu hiệu của một cuộc tấn công sắp xảy ra mà thực chất chỉ là : một minh chứng cho sự quyết tâm của Trung Cộng rằng họ sẽ không chấp nhận sự tách rời vĩnh viễn của Đài Loan khỏi Trung Quốc và là cơ hội cho QĐGPND trau dồi kỹ năng của mình – nếu vào một ngày nào đó Bắc Kinh cảm thấy họ bắt buộc phải dùng đến. Giám Đốc Điều Hành Chương trình Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tại Quỹ Marshall Đức của Hoa Kỳ. Bà là Cố vấn cho Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao về các vấn đề Trung Quốc ./-
No comments:
Post a Comment