Cuối thập niên 90, VC chuẩn bị đưa các nhà văn ở trong nước ra hải ngoại để thực hiện kế hoạch giao lưu văn hoá một chiều. Một số nhà văn Việt Nam lưu vong đã (vô tình hoặc cố ý) “đánh đu với tinh” là đã công khai ca tụng các nhà văn ở trong nước lên tới tận mây xanh.
“Nhà phê bình nổi tiếng Thụy Khuê, từ kinh đô ánh sáng Ba Lê thường phê bình rằng văn nghệ sĩ hải ngoại, vốn xuất thân từ miền Nam cũ, viết văn không có giá trị bằng những nhà văn cộng sản.
Vào tháng 9 năm 1991, trong bài “Đập Vỡ Cái Ghetto” đăng trên tập san Thế Kỷ 21, số 29 xuất bản tại miền Nam California, bà Thụy Khuê (TK) đưa ra con số 2 triệu người đi trốn Cộng sản ở khắp nơi trên thế giới, so với con số 60 triệu dân trong nước, bà kết luận rằng: “Về mặt nhân tài, nếu theo tỷ lệ 2/60 hay 1/30 mà định thì so với người trong nước, con số nhân tài chúng ta hạn hẹp lắm”.
Có lẽ để chứng minh nhân tài nở rộ trên đất nước “Bác” Hồ, bà TK đã đứng ra lo xuất bản quyển “Tiểu Thuyết Vô Đề” của nhà văn nữ cộng sản DTH, với lời giới thiệu: “Tiểu Thuyết Vô Đề” nhắm vào cái phần cốt tủy của huyền thọai “chống Mỹ cứu nước”, vạch trần mặt trái của những lý tưởng cao đẹp, mặt sau của những khải hoàn môn, mặt nạ đã trở nên những khẩu hiệu trống rổng: Tổ Quốc – Nhân Dân – Chính Nghĩa - Tự Do - Quốc Gia – Dân Tộc… vì người ta lạm dụng và dày xéo quá nhiều lần”.
… DTH là một hiện tượng hiếm có, một viên ngọc trong đám sình lầy đang ô nhiễm quê hương”.
Tưởng rằng hoàng hậu sẽ biết ơn kẻ có công phong vương cho mình, không dè Dương Hoàng Hậu ngồi trên ngai vàng vói tay xuống tặng cho TK một cái tát đau điếng bằng bản “Tự Bạch” dài 16 trang viết tay đề ngày 12 tháng 8 năm 1991, ghi là viết trong tù. Dương Hoàng Hậu ung dang trả lại vương miện cho TK, rằng: “Với một lời khen hết cỡ như vậy, ai đó – khác tôi, sẽ vô cùng mãn nguyện, bởi, phàm là người nói chung ai chẳng thích vuốt ve. Nhưng đáng tiếc, tôi thì không”.
Rồi DTH: “Yêu cầu cuốn Tiểu Thuyết Vô Đề không được tái bản hay dịch ra bất cứ thứ tiếng nào khác” vì quyển sách ấy “đã bị những người chống Cộng cực đoan lợi dụng một cách triệt để nhằm chống lại kẻ thù của họ tức Chính Quyền Hà Nội”. Vì “đó là một cơ may để những người chống Cộng cực đoan bộc lộ những hiềm thù chưa phỉ, cũng như mối căm uất của những kẻ thua trận chưa có cơ hội giải toả” và chiến dịch này đã gây ra những thất thiệt cho nhà nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”.
Cái tát tai này đã được chính bà TK và những nhà văn, nhà báo, bình luận gia phản ứng. Nhà văn Nhật Tiến nhảy vào can hai bà; vì ông quý trọng cả hai ngòi bút, nên kết luận rằng: “DTH và TK đều là hai kẻ đồng hành, đi giữa hai lằn đạn”. (Trích “Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ”, tiểu luận của Nguyễn Việt Nữ).
Ông Trần Bình Nam, cố vấn của Tổ Chức Phục Hưng, lúc đó đã có nhận định về cái gọi là “Tự Bạch” của DTH như sau:
“Bà DTH đã lẫn lộn giữa khẩu hiệu tuyên truyền và bản chất thật của vấn đề. Người Mỹ không đến Việt Nam để xâm lăng cho nên “chống Mỹ cứu nước” thuần túy chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền của đảng CSVN dùng để lường gạt , đẩy những thanh niên đầy nhiệt huyết như bà Hương ra chiến trường chết để họ thiết lập nền chuyên chính vô sản lên cả nước. Bà DTH có quyền tự hào vì trong quá khứ bà đã hành động như một người yêu nước, mặc dù là “người yêu nước bị lừa gạt,” nhưng cũng không có gì để bà DTH biến sự lừa gạt thành huyền thoại của đời mình, và qua đó biến khẩu hiệu tuyên truyền thành một mục tiêu để tôn vinh. Bà DTH sẽ nghĩ như thế nào nếu năm 1945 khi quân đội Mỹ để bộ lên bờ biển Normandie, dân Pháp theo lời kêu gọi của chính phủ Vichy lên đường “chống Mỹ cứu nước”?
Nhưng điều khó hiểu nơi bà DTH là trí óc minh mẫn và thông minh tuyệt vời của bà không phù hợp với những gì quá tầm thường mà bà đã viết trong bản Tự Bạch về Tiểu Thuyết Vô Đề.
Nhưng dù cho bản Tự Bạch về Tiểu Thuyết Vô Đề có mục đích chạy tội, một hành động rất bình thường với một người nào khác, trong trường hợp bà DTH thì phải nói là thật đáng tiếc. Bà DTH đã tự tay hạ một dấu chấm hết vào ngôi sao đang lên của bà.”
Là người edit, viết “Lời Bạt” và đặt tên quyển tiểu luận “Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ” của nhà văn Nguyễn Việt Nữ được xuất bản và phát hành vào năm 1993, theo tôi, “Ý kiến Thẩm Định cuốn “Dương Thu Hương và Con Hùm Ngủ” của bình luận gia Thế Huy ở Paris vào năm 1994 là chính xác nhất về những việc làm của DTH từ trước đến nay.
“… Viết tác phẩm này đều năm 1993, khi hầu hết những người Việt hải ngoại chưa ai gặp DTH, Nguyễn Việt Nữ (NVN) đã nhìn thấy được bản chất của DTH và những gì người nữ văn cộng CS này viết trong “Tự Bạch về Tiểu Thuyết Vô Đề” là tiếng nói gián tiếp của nhà cầm quyền (do tác giả bài này in đậm). Chỉ riêng nhận xét đó khiến mọi người phải nhìn nhận rằng NVN là người tinh tế. Bởi qua những bài tham luận chỉ trích giới lãnh đạo và nhất là khi DTH bị bắt, rất nhiều người đấu tranh và giới cầm bút VN cũng như hầu hết trí thức VN tại hải ngoại đã nhìn DTH với tất cả mọi hào quang rực rỡ khiến nhiều cuộc tranh luận gay gắt và đáng tiếc đã xảy ra trong hàng ngũ người Quốc Gia về người nữ văn công CS ấy. Những lời ca ngợi quá lố và có tính cách kết thân hoặc như một móm quà ra mắt đó, đã làm cho DTH nhìn người Việt Quốc Gia như đám người dựa hơi, tâng bốc qua đoạn nói với “ông Thụy Khuê” trong phần đầu của Tự Bạch…. NVN nhắm vào “Tự Bạch”, bởi nó là tiếng nói thật, là sự phân bua “đầy dụng ý” của DTH về những đòn phép, mánh mung rất phức tạp xung quanh quyển tiểu thuyết trên. Người ta cũng có thể hiểu nó là một thứ Sứ Điệp của người Cộng Sản gửi những nạn nhân nhu nhược trong hàng ngũ người Quốc Gia để chiêu dụ họ quy hàng, thống hối! NVN đã nhìn ra được dụng tâm của người Cộng Sản trong từng chữ viết của DTH, để qua đấy, chỉ cho “chúng ta thấy được những dự tính của CSVN trong những ngày sắp tới.” (Trích Bđd).
*
DTH sau đó lại còn nổi nang hơn với “chuyện tình trên sông Đà” với anh bác sĩ già không nên nết Bùi Duy Tâm (BDT). Lão bác sĩ già ó đâm “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” này đã tỉ tê với người đẹp DTH vốn là “thanh niên xung phong” là “đôi ta là đôi giao long, ngày anh về làm Thủ Tướng, em sẽ là Đệ Nhất Phu Nhân”. Bà “Đệ Nhất Phu Nhân To-Be” DTH bị Tướng Công An VC Dương Thông họp báo phổ biến chuyện bà này “làm tình trên cạn, làm tình dưới nước” với Việt kiều BDT. Bà này sau đó còn viết một bức thư dài và nói “lời sốc, ý ngốc” là chuyện “bác sĩ BDT ra hải ngoại rêu rao là đã chiếm đoạt thân xác của tôi chỉ là chuyện tôi chỉ cần nhổ một bãi nước bọt là xong (sic!)”.
Năm 2006, DTH được VC cho qua Pháp để cùng với các ông Bùi Tín, Vũ Thư Hiên… tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền cho VN; nhưng y thị đã lòi mặt “phản kháng vờ” khi viết quyển “Đỉnh Cao Chói Lọi để ca tụng Hồ Chí Minh! Mấy năm trước, bị tên “Vẹm con” Huy Đức vạch mặt “nổ sảng, nổ sằng” khi viết Mỵ Châu là con gái của Triệu Đà. Y thị đã tuyên bố nghỉ viết vì đã “bị lão hoá”. Nay, lại được đài RFA lôi lên để “nhìn lại ngôn từ” về “Ngày Quốc hận” và“Ngày Giải phóng của dân tộc” lại tiếp tục nói những “lời sốc, ý ngốc” chả ra làm sao cả. Ngay cả chuyện khi y thị cho rằng Nguyễn Văn Trấn, nói rằng “nhà của người ta lấy, vợ của người ta ngủ…” càng chứng tỏ y thị đã bị… tửng tửng cái đầu. Người nói câu nói này là tên hung thần Nguyễn Hộ, tác giả “Quan Điểm và Cuộc Sống”: “Nhà của ngụy ta ở, vợ của ngụy ta xài, con của ngụy ta sai, còn ngụy thì ta đày bọn chúng lên rừng thiêng nước độc” là nguyên văn câu nói của thằng VC ác ôn này.
“Bà DTH lớn lên trong chế độ CS, nhưng chế độ không có dạy văn hóa cho nên bà không được hiểu về lịch sử VN cũng như lịch sử thế giới cho nên bà mới lầm lẫn. Nhưng RFA là 1 cơ quan văn hóa quốc tế thì tại sao họ lại tung nó ra cho người Việt? Cơ quan văn hóa quốc tế mà mù văn hoá đến như vậy sao?”
Tác giả Bùi Anh Trinh trong bài “Người Việt chống Cộng trả lời RFA và Dương Thu Hương” đúng là đặt câu hỏi khó cho đài RFA mà dư luận còn gọi là “đài Tiếng nói VC ở DC”. Chuyện dễ hiểu, cũng như DTH, đài RFA chỉ là những kẻ ăn cơm chúa phải múa theo lời dạy bảo của ai đó mà thôi!
Sở dĩ tôi viết bà nhà phê bình Thụy Khuê đã (vô tình hay cố ý) đánh đu với tinh là từ Paris đã nhờ ông Từ Mẫn (Võ Thắng Tiết) nhà xuất bản Văn Nghệ (nay đã ngưng hoạt động) in và phát hành quyển “Tiểu Thuyết Vô Đề” trong đó DTH vô cùng cường điệu “khi kể lại chuyện lính thám báo của miền Nam đã hiếp dâm các thanh niên xung phong, hiếp xong lại cắt vú, xẻo cửa mình của họ vất vung vải khắp nơi”.
Những người lính của QLVNCH đều biết quy luật của những người lính thám báo là bảo mật không để lộ tung tích. Chuyện lính thám báo miền Nam hãm hiếp thanh niên xung phong, hãm hiếp xong lại cắt vú, xẻo cửa mình vứt vung vải khắp nơi – như DTH viết - quả là chuyện ngoài sức tưởng tượng chỉ có nhà phê bình Thụy Khuê, một người du học và ở lại Pháp mới tin chuyện này là có thật. (Xin xem phần phụ đính).
Ở California, một số nhà văn đếm trên đầu ngón tay hớn hở “đánh đu với tinh” là các nhà văn Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Khởi Phong, những người thay phiên nhau điều hành tạp chí Văn Học xuất bản tại Nam California.
Những năm đầu thập niên 90, các nhà văn này đã tham dự cuộc hội thảo “Bể Dâu” do tên Việt Cộng nằm vùng Vũ Đức Vượng tổ chức. (Tên này hiện nay đã về VN giữ chức Giám đốc Chương Trình Năm Học Nước Ngoài). Cũng như các nhà văn này đã tham dự cuộc hội thảo do “nhóm văn học với danh hiệu là Ink and Blood (Mực và Máu)” trình bày hai chủ đề . Phần thứ nhất có tựa là A Soldier Named Tony D. thực hiện bởi Nguyễn Quý Đức dựa vào câu chuyện ngắn của nhà văn VN còn ở trong nước là Lê Minh Khuê. Nhà văn này cũng có mặt trong cuộc hội thảo này. Phần thứ hai là bình văn lấy từ cuốn tuyển tập truyện ngắn “The Other Side of Heaven” (Phía Bên Kia Thiên Đường) phần này trình bày bởi các nhà văn Hoa Kỳ Wayne Karlin, George Evans và các nhà văn VN Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái (xin xem phần phụ đính).
Cuốn “The Other Side of Heaven” là một tuyển tập gồm 18 truyện ngắn nguyên bản Anh ngữ và có một số dịch ra từ Việt ngữ. Nhà văn Hoa Kỳ Wayne Karlin đã củng Trương Vũ (tức Trương Hồng Sơn) tại Hoa Kỳ cùng tuyển chọn các truyện ngắn của các nhà văn Mỹ và nhà văn VN, cả trong lẫn ngoài nước để phát hành. Nhà xuất bản Curbstone Press bình luận rằng đây là một tuyển truyện về hậu chiến VN “đau thương nhưng cũng kỳ diệu.”
12 truyện ngắn của tác giả VN thì có 4 truyện ở trong nước (Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái) và 8 truyện của nhà văn VN hải ngoại (Võ Phiến, Hoàng Khởi Phong, Nguyễn Mộng Giác, Trần Vũ, Nguyễn Xuân Hoàng, Andrew Lâm, Phan Huy Đường và Lai Thanh Hà).
Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Xuân Hoàng đã qua đời. Hoàng Khởi Phong, theo nhàvăn Văn Quang thì đã về VN để sinh sống. Nguyễn Quý Đức là con của cụ Nguyễn Văn Đãi, từng bị VC giam giữ vì giữ chức Đại biểu Chính phủ Miền Trung/VNCH. Anh nhà báo này đã về Hà Nội mở quán cà phê để sinh sống.
*
Xin mời độc giả đọc phần phụ đính là bài viết “Có những nhà văn như thế đó” của nhà văn Huy Phương viết về các nhà văn Hồ Anh Thái, hiện là Phó Đại sứ VC tại Iran, Tạ Duy Anh, Dương Thu Hương với những dòng chữ đọc lên nghe lạnh gáy như:
“Giết người lúc ấy sao mà sướng thế!”.
Và đọc để thấy rõ ràng là nhà phê bình Thụy Khuê đã đánh đu với mụ chằn tình gấu ngựa Dương Thu Hương với “khoái cảm (giết người) không che đậy.”
NGUYỄN THIẾU NHẪN
San José 10-30-2015
*
* *
PHỤ ĐÍNH
Có những nhà văn như thế đó - *Huy Phương
Hồ Anh Thái, sinh năm 1960 tại Hà Nội, là một nhà văn đương thời của Việt Nam, từng là chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội trong vòng 10 năm, tác giả của gần 30 tác phẩm và đoạt bốn giải thưởng “nội địa.” Ông được xem thuộc thế hệ nhà văn thời hậu chiến và là một nhà ngoại giao, tiến sĩ Văn Hóa Đông Phương, hiện giữ chức vụ phó đại sứ Việt Nam tại Iran.
Nói về Hồ Anh Thái, Anh Chi, trong tạp chí Nghiên Cứu Văn Học Hà Nội đã ca tụng: “Bây giờ nhìn nhận hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái, chúng tôi nghĩ, anh đã và đang tiếp tục sáng tác những tác phẩm chứa đựng nhiều phẩm chất văn hóa,” hay “...Với lao động sáng tạo liên tục và mang tính chuyên nghiệp, anh đã thể hiện bản lĩnh của một nhà văn hàng đầu ở Việt Nam trong thời đại văn chương nước ta hội nhập với văn chương thế giới!” Nói chung Hồ Anh Thái được ca tụng như một nhà văn lớn, có tầm cỡ quốc tế của Việt Nam.

Như vậy, khi Bắc Việt chiếm miền Nam, Hồ Anh Thái mới 15 tuổi, chưa đến tuổi ra trận, trước 1975 chỉ mới là loại thiếu nhi khăn quàng đỏ, đánh trống ếch và thuộc lòng “ai yêu bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng,” bị nhiễm độc bằng lối tuyên truyền xảo trá Mỹ đang xâm lược miền Nam và lính ngụy là bọn ăn thịt người. Thời nhỏ, có thể Hồ Anh Thái mục kích cảnh máy bay Mỹ dội bom xuống Hà Nội, thấy lửa cháy và những cái chết, muốn trở thành nhà văn, nhưng nếu muốn viết về chiến tranh, phải cần có kinh nghiệm sống, hay học hỏi, nghiên cứu, chứ không phải qua những câu chuyện kể của những người đi xâm lược miền Nam trở về sau ngày 30 Tháng Tư, 1975.
Khi đã trở thành người thắng cuộc, ai cũng là anh hùng, người lính có bao nhiêu điều phấn khởi, hả hê, khoác lác để kể chuyện cho bọn trẻ đang ngóng tai nghe. Một trong những đứa trẻ ấy lớn lên trở thành một nhà văn viết về chiến tranh, mà kinh nghiệm sống là chỉ cần nghe những kẻ bốc phét, hoang tưởng, kể lại những chuyện không có được một phần nghìn sự thật.
Câu chuyện lính ngụy ăn gan người, uống máu có lẽ đã được mô tả trong nhiều tác phẩm của các nhà văn miền Bắc trong và sau chiến tranh, chỉ với mục đích gây lòng căm thù cho quần chúng, nhưng nhà văn mới lớn sau 1975, Hồ Anh Thái đã đi quá đà, thêm câu chuyện moi gan, ăn tim bằng cách mô tả lính ngụy “quay” tử thi Việt Cộng, rồi “róc thịt uống rượu!” như sau:
“Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị bằm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội.”
Trong một cảnh khác, lính ngụy không quay Việt Cộng như quay heo, mà chỉ nổi lửa để nướng tim, gan ăn tại chỗ, đặc biệt trí tưởng tượng của nhà văn bắt đầu đi đến chỗ điên khùng khi viết: “Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”
“...Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã tới. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.”
Hồ Anh Thái có thể chỉ nghe kể lại qua một nhân vật ngôi thứ ba, với chuyện lính ngụy quay người, moi tim gan uống rượu, nhưng với Dương Thu Hương, như lời người kể chuyện thật với nhân vật “chúng tôi” nói về lính thám báo miền Nam, hiếp dâm, xẻo vú và cửa mình thanh nữ xung phong miền Bắc:
“...Chúng tôi hướng vào góc rừng đã tỏa ra mùi thối khủng khiếp mà đi. Tới vực cô hồn, gặp sáu cái xác truồng. Xác đàn bà. Vú và cửa mình bị xẻo, ném vung vãi khắp đám cỏ xung quanh.
Nhờ những tấm khăn dù, nhờ những chiếc cổ áo sơ mi kiểu lá sen tròn và hai ve nhọn mà chúng tôi nhận ra đấy là những người con gái miền Bắc. Có lẽ họ thuộc một binh trạm hoặc một đơn vị thanh niên xung phong cơ động nào đó bị lạc. Cũng có thể họ đi kiếm măng hoặc rau rừng như chúng tôi rồi vấp bọn thám báo.
Chúng đã hiếp các cô tàn bạo trước khi giết! Những cái xác bầm đập méo mó! Da thịt con gái nõn nà tươi thắm vậy mà khi chết cũng thối rữa y như da thịt một lão già phung lỡ hay một con cóc chết!” (Tiểu thuyết Vô Đề)
Phải chăng vì bọn ngụy ác độc, man rợ như vậy nên miền Bắc có quyền vẽ lên hình ảnh “người lính cụ Hồ” đáp lễ với những cách người hả hê, khát máu, để làm gương cho cả một thế hệ sôi sục vì căm thù:
“Quân ta ào lên, bắt giết, đâm, giẫm đạp. Một mụ ngụy cái, ngực để trần, miệng há ra ú ớ. Niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình. Mình găm vào ngực mụ cả loạt khiến ngực mụ vỡ toác mà mặt mụ vẫn chưa tắt hy vọng. Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế! Một thằng ngụy bị mình xọc lê vào bụng, nghe ‘thụt’ một cái. Mình nghiến răng vặn lê rồi trở báng súng phang vào giữa mặt hắn. Hắn lộn một vòng, gồng mình giãy chết như con tôm sống bị ném vào chảo m...ỡ.” (Tạ Duy Anh, “Đi Tìm Nhân Vật,” tiểu thuyết, NXB Văn Hóa Dân Tộc, 2002.)
Tôi ở miền Nam, không biết ngoài mặt trận “con ngụy cái” này là ai, vì chúng tôi không có nữ quân nhân tham chiến, không lẽ đây là một người đàn bà trong ngôi làng, một cán bộ Xây Dựng Nông Thôn để lính Bắc Việt trút hết nỗi căm hờn và thỏa mãn thú tính lên cao độ như thế, một con chó cắn người hay một con cọp vồ mồi cũng không “thú” hơn” là chất “thú” của một người lính Việt Cộng?
- “Giết người lúc ấy sao thấy sướng thế!”
Ở ngoài mặt trận, không giết người thì người giết. Nhưng giết người mà thấy khoái cảm thì nhân loại chỉ thấy có người lính Bắc Việt. Ngay cả ISIS cắt cổ người cũng không có cái hả hê như thế! Tạ Duy Anh còn không che đậy, nói rằng “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực mình!” Thì ra thế là đấu tranh, không phải tạo hạnh phúc cho người khác, mà là nếu họ hạnh phúc hơn mình, hãy giết hết họ, chẳng qua vì lòng ganh ghét.
Đó là nguyên nhân rõ ràng của “cải cách ruộng đất,” vì họ giàu hơn mình, của “thảm sát Mậu Thân,” vì họ sướng hơn mình.
Với Tạ Duy Anh “giết người thấy sướng,” đối với Dương Thu Hương “với khoái cảm không che đậy”:
“...Hùng thường nghĩ ra những cách giết người đặc sắc trong các trận giáp lá cà. Và gã kể lại cho đồng đội nghe với khoái cảm không che đậy. Kẻ thì gã xọc lê từ họng xuống tim, kẻ gã chọc từ nách bên phải qua bên trái, kẻ gã lại đâm từ hạ bộ ngược lên ở bụng. Kỳ thú nhất là một lần đánh ấp, gã bò vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy, chờ tên này dính chặt với cô vợ trắng phôm phốp của y như một cặp cá thờn bơn, gã mới phóng lê từ trên xuống. 'Một xọc xuyên hai, bảo đảm là sướng mắt...'” (TTVĐ- chương 11)
Một sự thèm khát đầy dục vọng, ở đây Dương Thu Hương rất giống Tạ Dụy Anh hay Tạ Duy Anh rất giống Dương Thu Hương, ở chỗ “niềm căm thù kẻ hạnh phúc hơn mình bốc lên ngùn ngụt trong ngực.”
Đó là chưa nói đến chuyện bừa bãi, vô lý trong tình tiết một tên bộ đội bò “vào phòng riêng một tên sĩ quan ngụy,” “bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò,” thám báo hoạt động trong lòng địch mà nổi lửa quay người hay hiếp dâm, xẻo vú!
Chuyện căm thù, dã man của người lính miền Bắc đã để lại trong một câu chuyện có thật, đó là cái chết của nhà văn Y Uyên, người sĩ quan của TK Bình Thuận năm 1966.
“Trên thân xác của Uy, khi chở về quân y viện, có những dấu đạn thừa, những dấu dao vô lối. Những dấu đạn, vết dao không thể cắt nghĩa được. Nếu không phải là chúng có từ những thù hận ghê gớm, những chất ngất căm hờn, thì không thể làm sao tìm ra lý do giải thích sự hiện diện của chúng trên thân hình một người đã chết.”
Tôi xin nhường sự phê phán ấy cho một nhà văn miền Nam:
“Tôi không hiểu bằng cách nào, trong cuộc chiến tương tàn, ròng rã hơn 20 năm này, những người lãnh đạo Cộng Sản đã dạy cho binh lính của họ như thể nào để lòng thù hận chất ngất mênh mông đến thế? Tôi chấp nhận những viên đạn thứ nhất là hợp lý - Ừ, thì cứ cho là hợp lý. Nhưng những viên đạn bắn bồi, những nhát dao đâm thêm trên một xác thân đã chết là những viên đạn, những nhát dao không thể cắt nghĩa, không thể chấp nhận được. Những người Cộng Sản Việt Nam đã làm những điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận, từ sự cuồng tín.” (“Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy” của Lê Văn Chính -Tạp Chí Văn, số 129, phát hành ngày 1 Tháng Năm, 1969)
Bốn mươi năm đã trôi qua, bây giờ người ta đang nói chuyện “hòa hợp hòa giải,” “khép lại quá khứ,” nhưng sau 40 năm cũng là lúc đã nhìn rõ mặt nhau. Có những nhà văn như thế đấy! Nếu có một cuộc xét lại, những nhà văn miền Bắc sẽ nghĩ gì về những tác phẩm “hoang tưởng” như thế? Và dù sao thì nó cũng đã để lại những vết dơ của nền văn hóa XHCN, còn ảnh hương lâu dài đến những nhận thức của những lớp người mới lớn lên sau khi Sài Gòn đổi tên.
Để kết luận bài này tôi xin ghi lại những câu thơ đầy lương tri của miền Nam viết trong chiến tranh:
“...Xem chiến cuộc như tai trời ách nước.
Ta bắn trúng ngươi vì ngươi bạc phước
Vì căn phần ngươi xui khiến đó thôi.”
(Nguyễn Bắc Sơn)
“...Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?”
(Tô Thùy Yên)