Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Thursday, 7 February 2013

Mt68: KHÔNG PHẢI CHÚNG TÔI CHỦ TRƯƠNG BẠO ĐỘNG - NHƯNG QUÁ KHỨ và HIỆN TẠI CHO THẤY "ĐỐI VỚI VIỆT CỘNG KHÔNG THỂ LÝ LUẬN PHẢI TRÁI hay KÊU GỌI TỰ GIÁC ĐỂ CÓ TỰ DO -DÂN CHỦ " NGÀY NÀO NGƯỜI VIỆT TRONG NƯỚC "CHƯA DÁM ĐỔ MÁU" THÌ NGÀY ẤY ĐỪNG HÒNG CÓ TỰ DO DÂN CHỦ./- Mt68


VIỆC PHỤC HỒI HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
                                                                                                                    Lê Quế Lâm

Sở dĩ tôi dám lạm bàn những việc đại sự của đất nước, vì tôi có cái may mắn được Quân đội phân công làm công tác nghiên cứu cuộc chiến VN. Sau hơn 4 năm đàm phán tại Paris, cuộc chiến VN bắt đầu đi vào giai đoạn kết thúc. Ngày 8/10/1972, Lê Đức Thọ đưa ra bản dự thảo hiệp định, gần như đồng ý các đề nghị của HK. Bản dự thảo được Kissinger thông qua và một lịch trình được tiến hành: Ngày 18/10, HK ngưng oanh tạc và tháo gở mìn ở các cửa biển BV. Ngày 24/10 Kissinger và Thọ phê chuẩn bản dự thảo sau khi được chính phủ VNCH đồng ý. Ngày 26/10 bản văn hiệp định được ký kết tại Paris. Ngày 27/10 bắt đầu ngưng bắn.
Ngày 18/10/1972 Kissinger rời Paris đi Sàigòn trình bản dự thảo HĐ với chính phủ VNCH. TT Thiệu đòi sửa đổi 69 điểm trong dự thảo. Sau 5 ngày không thuyết phục được VNCH, ngày 23/10, Kissinger rời Sàigòn, gởi điện báo cho Hà Nội, ông chưa thể đến Hà Nội phê chuẩn hiệp định như dự liệu. Một ngày trước đó, Kissinger gởi điện cho Nixon cho biết là vẫn hy vọng “có thể” giữ nguyên chương trình đã định, tức chuyến đi Hà Nội. Nixon liền báo cho Phạm Văn Đồng. Do đó, Hà Nội tức tốc chỉ thị CS ở Miền Nam ra lịnh các địa phương chuẩn bị hành động khi có lịnh ngưng bắn.

Xế chiều ngày 25/10/1972, từ bản doanh BTL Tiền phương QĐ I ở Phú Bài (Huế), tướng Ngô Quang Trưởng khẩn trình TT Thiệu một tin tức quan trọng: Lực lượng Cảnh sát Quốc gia QK 1 vừa tịch thu một mật điện của Bộ Tư lịnh QK 5 CS gởi Bộ Chỉ huy Thị đội Tam Kỳ (Quảng Tín) cho biết một hiệp định ngưng bắn sẽ được ký kết ngày 26/10. Kèm theo mật điện là bản “Chỉ dẫn tổng quát về ngưng bắn”, hướng dẫn việc cắm cờ lấn đất giành dân và sách động đồng bào xuống đường mừng hòa bình. Lợi dụng khí thế quần chúng, cán bộ CS hô hào đốt phá các cơ sở quân sự tiến tới cướp chính quyền.

TT Thiệu chỉ thị Bộ TTM chuyển cấp tốc tài liệu đó về Sàigòn. Ngay trong đêm đó, chúng tôi đã thảo bản tin phổ biến cấp thời cho các địa phương và viết phiếu trình Tổng TMT. Vì tính chất khẩn cấp, tờ trình được chuyển thẳng lên Phủ Tổng thống. Sáng sớm hôm sau, 26/10 tôi được Tr/tá Ngọc -CHT Trung tâm Khai thác tài liệu, hướng dẫn đến Dinh Độc lập trình bày chi tiết với Trung tướng Đặng văn Quang, Phụ tá An ninh Quân sự tổng thống. Tướng Quang cho biết, Kissinger vừa rời Sàigòn ba ngày trước. Trong năm ngày ở đây để tham khảo với chính phủ về bản dự thảo hiệp định, ông ta không đề cập gì đến việc ký kết, mà chỉ đưa ra một phó bản hiệp định để hai bên thảo luận.

Trong khi chính phủ VNCH chưa biết gì về việc ký kết và ngưng bắn thì tại Trung ương Cục Miền Nam và Quân khu 5 CS, cán bộ CS đã biết rõ ngày ký kết và giờ ngưng bắn có hiệu lực, để lợi dụng thời cơ đó chiếm ưu thế bằng cách lấn đất giành dân và cướp chánh quyền. Tại Củ Chi (Hậu Nghĩa), Hồng Ngự (Kiến Phong) và nhiều nơi khác, các đơn vị vũ trang CS tưởng có ngưng bắn thực sự, đã nhào ra đồng bằng cấm cờ lấn đất giành dân bị tổn thất nặng nề.

Để biện minh cho hành động thất tín, chiều 26/10/1972, Đài phát thanh Hà Nội công bố toàn văn bản dự thảo hiệp định bằng ba thứ tiếng Việt, Anh và Pháp với hai bức điện xác nhận sự thỏa thuận của TT Nixon. Hà Nội tố cáo HK lật lọng tráo trở vì Kissinger đã hứa đi Hànội phê chuẩn rồi lại sai hẹn. Hai giờ sau khi Hà Nội công bố bản văn hiệp định, Kissinger mở cuộc họp báo tại Bạch Cung. Đây là lần đầu tiên, ông họp báo công khai thừa nhận: “hoà bình hiện đang ở trong tầm tay, hiệp định đang ở trong tầm mắt thấy, đặt trên cơ sở đề nghị ngày 8/5 vừa qua của tổng thống…Đó là một đề nghị công bằng cho tất cả mọi phe”.

Một tuần sau khi đã mượn tay Hà Nội công bố toàn văn bản dự thảo HĐ Paris, ngày 3/11/1972, trong cuộc vận động cử tranh cử ở Rhode Island, Nixon tiết lộ thỏa ước hòa bình đạt được với BV phải đáp ứng ba điểm: Một là ngừng bắn toàn cỏi Đông Dương. Hai là hồi hương tù binh Mỹ và giải quyết vấn đề người Mỹ còn mất tích trong cuộc chiến. Ba là nhân dân MNVN có toàn quyết định tương lai của họ. Ngày 7/11/1972 Nixon tái đắc cử vẽ vang.

Năm 1987, Ts Nguyễn Tiến Hưng đã thay đổi lịch sử khi viết quyển Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập. Tài liệu CS do Cảnh sát Quốc gia Vùng 1 tịch thu ngày 25/10 trở thành 17/10 (1972). Mục đích của ông Hưng: chứng minh Kissinger gian dối. Ngày 17/10/1972, CSBV đã chỉ thị thuộc cấp ở MN biết ngày ngưng bắn để hành động. Hôm sau, ngày 18/10/1972 Kissinger đến Saigòn lại dấu diếm VNCH. Sự kiện này được cựu TT Nguyễn Bá Cẩn ghi trong tác phẩm Đất Nước Tôi và Ts Larry Berman ghi trong quyển “No Peace, No Honor” (Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự: Nixon, Kissinger, Và Sự Phản Bội ở Việt Nam, dịch giả: Nguyễn Mạnh Hùng, đề tựa: Hoàng Đức Nhã)

Ngày 27/1/1973 HĐ Paris chính thức ra đời, nhưng Khmer Đỏ khước từ một giải pháp hòa bình ở Cam Bốt tương tự như MNVN. Trong khi đó, CSBV tiếp tục vận chuyển người và vũ khí vào MN, trên đường mòn HCM, mà không còn sợ phi cơ Mỹ oanh tạc. Để giải quyết chung cuộc chiến tranh Đông Dương, HK bắt đầu oanh tạc nặng nề các cơ quan đơn vị của Khmer Đỏ để buộc Pol Pot phải chấp nhận đàm phán hòa bình. Ngày 15/8/1973 Quốc hội Mỹ buộc chính quyền Nixon phải chấm dứt mọi hành động quân sự ở Đông Dương. Giữa năm 1974, Đại tá Nguyễn Văn Tài -Tùy viên Quân lực VNCH ở Cam Bốt báo cáo Quân đội Lon Nol tịch thu được một số tài liệu CS quan trọng. Tôi và Trung tá CHT Trung tâm khai thác tài liệu, được cử sang Nam Vang công tác. Tài liệu tiết lộ CSVN gặp rất nhiều khó khăn vì Khmer Đỏ.

Các lãnh tụ Khmer Đỏ lên án Hà Nội ký HĐ Paris để một mình Campuchia gánh chịu bom đạn của Mỹ, trong khi hơn 40 ngàn quân BV không chịu rút khỏi Campuchia. Khieu Samphan còn tố cáo CSVN có mưu đồ tiêu diệt những lực lượng ưu tú của Khmer Đỏ nhằm chuẩn bị biến chính quyền Campuchia sau ngày giải phóng thành một thứ đầy tớ thực sự cho VN. Vì thù hận đó, Khmer Đỏ bắt đầu thanh lọc nội bộ, tiêu diệt những thành phần Khmer Đỏ có khuynh hướng thân VN, và còn xóa sạch người Việt trong các vùng do chúng kiểm soát. Đồng thời Khmer Đỏ yêu cầu lực lượng vũ trang CSBV và VC phải rời đất Miên tức khắc.

Việc phục hồi HĐ Paris 1973: Sau gần 8 năm trong tù cải tạo, tôi được phóng thích và vượt biên đến Úc đầu tháng 10/1984. Lúc bấy giờ CSVN đang sa lầy vì cuộc chiến xâm lược Campuchia, bị cả thế giới lên án, Đại hội đồng LHQ luôn đòi Hà Nội phải rút quân khỏi Cam Bốt. Rõ ràng Hà Nội đã vi phạm điều 20 của HĐ Paris 1973: không tôn trọng nền trung lập của Campuchia, đã không rút quân khỏi Campuchia mà còn xâm lược. Hà Nội phải tuân thủ điều 20c: “Công việc nội bộ của Campuchia và Lào phải do nhân dân của mỗi nước này giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài”.

Trong đàm phán Paris, chủ trương của TT Nixon là “ngừng bắn toàn cỏi Đông Dương”, HĐ hòa bình về VN đã được ký kết ngày 27/1/1973, Hiệp định hòa bình về Lào đã ký ngày 21/2/1973. Chỉ có Campuchia chưa có ngưng bắn để tái lập hòa bình. Vì thế, tôi suy diễn HĐ Paris 1973 chưa thể thi hành. Nay CSVN xâm lược Campuchia bị LHQ lên án là cơ hội để HĐ Paris 1973 được thi hành trọn vẹn.

Tôi có cái cơ may được quốc gia giao phó nghiên cứu cuộc chiến VN. Nói đến chiến tranh VN phải nói đến HĐ Paris 1973. Lê Đức Thọ và Kissinger được giải Nobel Hòa bình. Hiệp định được một Hội nghị quốc tế bao gồm đầy đủ 5 Ủy viên thường trực HĐBA/LHQ với sự chứng kiến của ông TTK/LHQ long trọng tán thành và ủng hộ HĐ Paris về chấm dứt chiến tranh và tái lập hòa bình ở VN. Đồng thời ghi nhận những cam kết của các bên ký hiệp định sẽ tôn trọng triệt để và thi hành nghiêm chỉnh hiệp định.
Tôi và một vài anh em ở Trung tâm khai tài liệu CS (CDEC) được biết tin tức so khởi về bản hiệp định này. Sau đó đích thân tôi tường trình Trung tướng Quang -Cố vấn An ninh Quốc gia của TT Thiệu. Buổi chiều cùng ngày, khắp thế giới biết được bản dự thảo Hiệp định chấm dứt chiến tranh VN đã ra đời. Từ đó tôi cảm thấy có sứ mạng phải làm sáng tỏ cuộc chiến đau thương của dân tộc. Sau khi đến bến bờ tự do, năm 1987 tôi đã hoàn thành quyển nghiên cứu chiến tranh VN tựa đề “Việt Nam Thắng và Bại, Mất và Còn”. Tôi có ý nghĩ đơn giản: (CS) Thắng đi liền với Mất (đất nước, tự do). Bại gắn liền với Còn. Ngày CS bại, đất nước còn với tự do dân chủ.

Tôi đã gởi tặng quyển sách đến Đại tá Hồ Văn Lời, cựu Trưởng phòng II, Bộ TTM. Đ/tá Lời đã chấp nhận đơn xin của tôi về làm việc ở Trung tâm KTTL. Sau đó ông tham dự phái đoàn quân sự VNCH ở hội nghị Paris. Lúc bấy giờ Đ/t Lời đang ở Hoa Kỳ, Đại tá Mai Viết Triết thuộc Hội Cựu Quân nhân QLVNCH ở Pháp đã nhận xét: “Đọc hết chương I: “Mất và Còn”, Thắng và Bại” và chương kết: Nghĩa vụ, Thức tỉnh, Trách nhiệm, Phán xét...tôi rất vui mừng và phấn khởi vì biết rằng còn có người cùng quan điểm, cùng hiểu rõ cái thế lâu dài của cuộc chiến bại ở miền Nam năm 1975, phân biệt được cái bại chiến thuật để đem lại cái thắng chiến lược và...nhứt là đã nói lên cái tình dân tộc, cái nghĩa đồng bào... để mở đường xây dựng đất nước dân tộc.
...Sau tháng 4-75, hằng trăm ngàn anh em chiến hữu sẳn sàng trình diện học tập vì tin ở cái tình nghĩa đồng bào, cùng một giống nòi...nhưng 12 năm qua, sự thật là đâu? Chúng ta khác người cộng sản cũng vì cái tình người đó. Cần phải thật thận trọng trong tương lai và đặt cho đúng chỗ cái tình nghĩa đồng bào.... Trong quyển sách của Anh, tôi thấy có nhiều phần, nhiều đoạn rất đúng, rất chính xác, cần được phổ biến cho đồng bào nói chung và quân nhân nói riêng, để nắm vững vấn đề và xây dựng hiểu biết cá nhân, lấy đó làm một cái gốc của nền tảng xây dựng đồng thuận, thống nhất ý kiến...” (Paris ngày 1 tháng 2 năm 1988: Mai Viết Triết)

Quyển thứ hai tặng cựu Ngoại trưởng Trần Văn Lắm lúc đó là Chủ tịch Liên Minh Toàn Dân Việt Nam Quốc Gia. Cụ Lắm viết “Tôi đi vắng hơn một tháng nay, vừa về nhận được sách “Việt Nam Thắng và Bại, Mất và Còn”. Xin Ông nhận lời đa tạ của tôi và thứ lỗi vì hồi âm chậm trể. Tôi chưa đọc đọc xong trọn tác phẩm của Ông, nhưng đã xem kỷ bài viết về Hiệp định Paris 1973. Các ngày tháng năm cũng như các dữ kiện nêu ra đều rất đúng và chính xác, chứng tỏ một sự nghiên cứu rất tỉ mỉ. Tôi ý thức được sự dày công sưu tầm của Ông để ghi nhận lại các giai đoạn lịch sử của nước nhà trong sự tranh đấu cho dân chủ và quyền dân tộc tự quyết. Tác phẩm của ông sẽ giúp cho các nhà khảo cứu sau này biết rõ hơn sự thật và cho các thế hệ con em thông cảm với mọi hành động hy sinh của giới tiền bối”. Canberra ngày 2-2-1988: Trần Văn Lắm)

Quyển thứ ba gởi tặng Bác sĩ Bùi Trọng Cường -Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự do Liên bang Úc Châu. Tất cả đều đánh giá quyển sách hữu ích cho cuộc đấu tranh mang lại dân chủ tự do cho dân tộc. Bác sĩ Bùi Trọng Cường đã đăng báo, giới thiệu quyển sách đến đồng hương:

Ông LQL, một người công tác nghiên cứu của quân lực VNCH trước đây. Mặc dù đang sống trong hoàn cảnh khó khăn vẫn cố gắng dành hết cả thì giờ vào việc hoàn thành “đứa con tim óc“của mình. Đây là một tác phẩm nghiên cứu lịch sử cuộc chiến VN đầu tiên tại Úc Châu, nhưng cũng là tác phẩm đầy đủ nhất, rất khách quan và gói ghém trọn vẹn cái chính khí của tác giả, một người Việt còn thao thức cái đau mất nước đang tìm cách vạch con đường sáng để giải cứu quê hương. Theo tôi đây là một tài liệu lịch sử vô giá đối với Thế hệ Trẻ VN Tị Nạn tại Hải Ngoại, một cuốn sách Gối Đầu Giường cho tất cả các em học sinh, sinh viên muốn tìm hiểu về lịch sử VN cận đại”... (Úc Châu 4/2/1988, BS Bùi Trọng Cường)

Quyển sách của tôi ra đời đúng vào thời điểm GS Vũ Quốc Thúc ở Paris cùng một số thân hữu như cựu Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ, cựu Bộ trưởng Nguyễn Thạch Vân, Cựu Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Cựu Nghị sĩ Nguyễn Duy Tài...tổ chức ở Phòng Khánh tiết Tòa Thị sảnh Quận VI Paris một buổi hội thảo công khai về vấn đề trở lại Hiệp Định Paris. Nhân dịp này, GS Thúc phổ biến cuốn Bạch thư bằng tiếng Pháp nhan đề “Guèrre et Paix en Indochine” (Chiến tranh và hòa bình ở Đông Dương).

Dù đã in xong 1000 quyển tại nhà in Việt Nam ở Bankstown, song tôi đành hủy bỏ tất cả vì nhận thấy tác phẩm của mình chưa đáp ứng với sự kỳ vọng của Bs Cường. Sau 5 năm tận lực cố gắng, tôi vui mừng nhận thấy nội dung và những gì tôi nhận định trong quyển “Việt Nam-Thắng và Bại, Mất và Còn” vẫn còn nguyên giá trị, tôi chỉ bổ túc thêm sử liệu, cập nhật hóa với tình hình để nó xúc tích, hoàn chỉnh hơn và hội đủ một vài tiêu chuẩn tối thiểu như các sách nghiên cứu Âu Mỹ. Tôi cảm thấy bớt hỗ thẹn khi đọc lại những lời giới thiệu nồng nhiệt của ông Chủ tịch Cộng đồng Người Việt Tự do Úc Châu.

Năm 1993 tôi chính thức xuất bản quyển Việt Nam Thắng Và BạiBản Nghiên Cứu Tổng Kết Cuộc Chiến Việt Nam Trong Bối Cảnh Cuộc Chiến Tranh Lạnh. Tựa đề Mất Và Còn không còn hiện diện, vì sợ người đọc có thể hiểu lầm, đây là lập luận của kẻ bại trận nay muốn phục thù. Đó không phải là ý định của tác giả.

Quyển sách được Giáo sư Vũ Quốc Thúc viết lời Tựa. Đây là một vinh dự lớn cho tôi vì Giáo sư Thúc là một chứng nhân đã sống và tham dự tất cả những giai đoạn lịch sử cận đại của nước nhà từ đầu thập niên 1940, mà tôi đã ghi lại trong tác phẩm này. Trong VN-TVB, có Phụ đính II: Hiệp định Paris 1973 có hữu ích và còn cần thiết không?Vì thế, Giáo sư VQT đã dành một phần ba bài Tựa dài 15 trang để minh xác về Vấn đề trở lại Hiệp định Paris năm 1987:

Sau khi chế độ Cộng hòa sụp đổ, tôi bị kẹt ở Sàigòn cho tới cuối tháng 6 năm 1978 mới được phép di cư sang Pháp nhờ sự can thiệp của Chính phủ Pháp. Một điều khiến tôi vô cùng thắc mắc trong những ngày đó là không thấy một vị lãnh đạo cũ nào của VNCH lên tiếng đòi thi hành đúng đắn HĐ Paris 1973...Dù biết trước những khó khăn, ngay từ năm 1986, chúng tôi đã tìm cách nêu vấn đề trở lại HĐ Paris. Mục đích của chúng tôi lúc bấy giờ, là kích thích tinh thần đấu tranh của Cộng đồng Việt Kiều tại Pháp, phần nào đã suy giảm sau khi thấy CSVN rầm rộ ăn mừng “10 năm tái thống nhất đất nước”...làm như vậy chúng ta gián tiếp bảo vệ danh nghĩa của toàn thể các nạn dân của BV thôn tính MN. Ai cũng biết rằng các nước Âu, Mỹ, Á ngày càng trở nên lãnh đạm, nếu chưa phải là “hằn học” đối với các nạn dân VN. Họ cho rằng đám người này kéo nhau di cư, không phải vì lý do chính trị mà chỉ vì lý do kinh tế. Nêu vấn đề Hà Nội vi phạm HĐ Paris, chúng tôi muốn nhắc lại trách nhiệm của các cường quốc đã long trọng bảo đảm sự thi hành HĐ này. Chính vì họ “bội ước”, cho nên hàng triệu người đã phải bỏ VN ra đi. Họ không có quyền mạt sát nạn dân VN là kẻ tị nạn chính trị giả hiệu!...

Theo lời ông Georges Mesmin, một vị dân biểu có thế lực từng giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại tại Hạ Viện Pháp, khi chính phủ Pháp chính thức yểm trợ Việt Nam (cộng sản) gia nhập Liên Hiệp Quốc thì mặc nhiên đã xí xoá việc Hà Nội vi phạm HĐ Paris 1973. Còn HK ngay sau khi TT Geoges Bush nhậm chức (Tháng Giêng 1989) Bộ Ngoại giao đã chính thức trả lời hai luật gia Nguyễn Hữu Thống và Phạm Nam Sách, là vì lý do chính trị, không thể trở lại HĐ Paris được nữa. Cuối cùng GS Thúc kết luận:

Tóm lại, vấn đề trở lại HĐ Paris, coi như đã bị các đồng minh cũ của VNCH gạt bỏ hẳn. Chế độ CS đã cáo chung ở LX và các nước Đông Âu. Một khi khối CS tan vỡ, chủ thuyết Mác Lênin trở nên lỗi thời: sớm muộn gì các chế độ CS cũng phải giải thể. Như vậy, mục đích của chúng ta -những người quốc gia- là phải làm sao cho chế độ CSVN giải thể mau chóng mà không gây quá nhiều tổn thất cho đất nước. Điều nên để ý là trong HĐ Paris 1973 có nêu cao những nguyên tắc như: tôn trọng nhân quyền và dân quyền, quyền tự quyết của dân tộc, sự hòa hợp giữa các khuynh hướng chính trị khác biệt, sự sống chung giữa các tổ chức tôn giáo...Những nguyên tắc này vẫn còn nguyên vẹn giá trị và có thể dùng làm nền móng tinh thần để xây dựng một nước VN mới, tự do, dân chủ, phồn thịnh và hiếu hòa”.

Theo thiển ý của tôi, sở dĩ việc phục hồi HĐ Paris 1973 bất thành vì “Vai trò của Mỹ tại VN kể như đã chấm dứt”như tuyên bố của TT Ford tại Đại học Tulane ngày 23/4/1975. Còn chiến tranh Campuchia là do xung đột giữa CSVN và TC, nên HK và thế giới để cho Bắc Kinh và Hà Nội giải quyết. Chiến tranh Campuchia chỉ là chiến tranh VN kéo dài nên HĐ Paris 1991 của Cam Bốt rập khuông HĐ Paris 1973 của VN. Chỉ có một điểm khác biệt, ở Campuchia có tuyển cử tự do được quốc tế giám sát. Nhờ đó Campuchia trở thành một quốc gia độc lập, trung lập, đa đảng, không còn bị CSVN chi phối, nên không có chủ nghĩa xã hội.

Hiến pháp năm 1980 của Cộng hoà XHCN/VN đã ghi “TQ là kẻ thù truyền kiếp và nguy hiểm nhất”, nhưng để tạo dựng lại mối quan hệ hữu nghị Việt Trung, Hà Nội đã xóa bỏ những dòng chữ lên án TC. Hà Nội đến hội nghị Thành Đô năm 1990 hợp tác với Bắc Kinh giải quyết cuộc chiến Campuchia với đề nghị giúp Hun Sen liên minh với Khmer Đỏ cai trị đất nước Chùa Tháp. Campuchia và VN cùng xây dựng XHCN dưới sự lãnh đạo của TQ, đứng đầu khối XHCN để chống đế quốc Mỹ. Cả hai đề nghị đều bị Bắc Kinh thẳng thừng bác bỏ. Campuchia đi theo con đường độc lập tự chủ của họ, còn TQ đang dựa vào Mỹ, Nhật và các nước Tây phương để thực hiện “bốn hiện đại”.

Kiểm điểm sau hội nghị Thành Đô, ông Võ Văn Kiệt nói “Mình bị nó lừa nhiều cái quá. Tôi nghĩ TQ chuyên là cậm bẫy”. Phạm Văn Đồng nói: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết, còn được hay không thì không sao”. Còn Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh nói với các đồng chí: “Dù TQ là bành trường, nhưng họ là xã hội chủ nghĩa”. Vì thế Bắc Kinh phải duy trì “cái quái thai” Kinh tế thị trường, Định hướng Xã hội chủ nghĩa” đểtừng bước Hán hóa VN.
Kết luận: Ngày 11/7/1995, TT Bill Clinton tuyên bố Mỹ bình thường hóa quan hệ với VN. Ông nói: “Bằng việc giúp đưa VN hòa nhập cộng đồng các dân tộc, việc bình thường hóa còn phục vụ lợi ích của chúng ta trong việc phấn đấu cho một nước VN tự do và hòa bình ở Châu Á ổn định và hòa bình. Chúng ta sẽ bắt đầu bình thường hóa quan hệ buôn bán của chúng ta với VN, là nước mà nền kinh tế của họ đang được tự do hóa và hòa nhập vào nền kinh tế của khu vực châu Á-Thái Bình Dương”.

Ngày nay HK đang trở lại Châu Á, họ coi khu vực Á châu-Thái Bình Dương là hướng phát triển chủ yếu trong thế kỷ 21. Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương gọi tắt là TPP (Trans-Pacific Partnership) đã được hình thành bao gồm Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, Chile, Peru, Mexico, Canada, Brunei, Singapore, Malaysia và Việt Nam). Ngoài ra, HK còn chủ trương hợp tác kinh tế, thương mại với các nước khác, bao gồm Ấn Độ, Nga, Trung Quốc, Nhật, Đại Hàn... để Á Châu-Thái Bình Dương trở thành một khu vực tự do mậu dịch lớn nhất thế giới. Điều đó đòi hỏi tình hình ở đây phải ổn định và hòa bình. Nhìn lại cuộc chiến VN, người ta sẽ nhận thấy HK đã tạo dựng sẳn những nền móng đó từ lâu. 

VN từng là địa bàn chính của cuộc xung đột giữa nhiều cường lực trong thời chiến tranh lạnh của thế kỷ trước, khiến khu vực Đông Á luôn trong tình trạng bất ổn. Nhưng HK đã chuyển hướng chiến lược, từ đối đầu sang hợp tác, kết thúc chiến tranh VN bằng HĐ Paris 1973. Hòa bình được tái lập trong bầu không khí hữu nghị hợp tác giữa các phe đối nghịch: không những giữa ba phe ở Miền Nam VN; giữa Miền Nam và Miền Bắc để thống nhất VN trong hòa bình; mà còn giúp các nước ASEAN trở thành khu vực hòa bình, tự do và trung lập. Nhờ đó, ba cường lực HK, LX và TC không còn xung đột để tranh giành ảnh hưởng, họ sẽ hợp tác với nhau để cùng phát triển, trên cơ sở các bên đều có lợi.
Từ phân tích trên, tôi tán đồng nhận định của cựu Đại sứ Bùi Diễm: “Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày ký HĐ Paris 1973, trở lại nói về HĐ Ba Lê cũng là điều có ích, vì càng đi sâu để phân tích tình hình thời đó dưới ánh sáng của tình hình trên thế giới và tình hình ở đất nước VN trong lúc này, việc trở lại nghiên cứu Hiệp định Ba Lê đó cũng là việc có ích”.
Tôi kỳ vọng giới lãnh đạo CSVN nhận thức được đất nước hiện nay đang bị Hán hóa không thể nào tránh khỏi chỉ vì chủ nghĩa xã hội. Vì thế những người CSVN có tinh thần dân tộc chủ nghĩa hãy sớm từ bỏ XHCN. Bốn thập niên trước, họ không có quyền chủ động, khiến đất nước gặp biết bao thảm họa. Nay thời cơ thuận lợi lại tái diễn khi HK trở lại Châu Á hợp tác giao thương với TC và nhiều cường lực khác. Mục tiêu của Đảng CSVN là xây dựng CNXH, nhưng XHCN đã và sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Từ bỏ chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với từ bỏ Đảng CS là hành động cứu nước, thể hiện tinh thần hòa giải dân tộc. VN đi vào con đường trung lập cùng các nước ASEAN mà TC đã từng thỏa thuận với Mỹ từ 40 năm trước, nay vẫn còn hiệu lực. Bước kế tiếp là thực hiện tổng tuyển cử dân chủ tự do, đưa đến chế độ đa đảng. Mục tiêu cuối cùng sẽ thành tựu: Đất nước độc lập, Dân tộc tự do, Toàn dân hạnh phục.
                                                                                      
Lê Quế Lâm
(Mừng Xuân Quý Tỵ 2013)

No comments:

Post a Comment