Đường Xa Xứ
Tôi trở về quê ngoại sau gần 10 năm dài đi biệt. Gia đình đã trôi giạt
về đây từ nhiều năm trước. Mặc dù bạn bè đi cùng chuyến xe mong muốn chí
tình, nhưng tôi không ghé lại Sài gòn chơi vài ngày như các anh em khác
mà đi thẳng ra xa cảng Miền Tây để về luôn vì trong lòng nôn nóng muốn
gặp lại Ba má và các em.
Xe đò tới Ngã tư Cai Lậy trời vừa xế bóng, tôi hơi ngỡ ngàng lúc xuống
xe vì phố xá bít kín không thấy đâu mấy cây dù ngoài vĩa hè trước các
tiệm nước. Bến xe Lam đi Bình Phú mất tiêu. Bảng hiệu Ngã Sanh còn đó
nhưng trông thật lạ hoắc vì thấp chủng. Quán “Bì Bún” nỗi tiếng khắp
miền Lục tỉnh mà tiền thân là “Nữ Quán” nhìn qua cũng không thấy đâu.
Chỉ thấy giữa đường vô chợ, giăng ngang hết cả con đường trên cao là
bảng hiệu “Thị Trấn Cai Lậy” to đùng màu bả trầu trông thật nghển ngãng
như tựa đề trên trang bìa của cuốn truyện Tàu “Tiết Nhơn Quí Chinh
Đông.”
Từ ngã tư dọc theo đường về nhà, hai bên hàng quán san sát rất khó nhận
ra được các ngã ba, ngã tư. Đến khi qua cây cầu đúc nhỏ, ngó nhìn thấy
nhà thầy giáo Tức bên phải thì mới nhận biết là đã tới ngã ba Bến Cát.
Qua thêm một dãy ki-ốt nữa là nhìn thấy đường vô chợ Cai Lậy ngang qua
dinh quận rồi đến khu mã Bốn Ông và đối diện bên kia đường là bảng tên
trường Trừ văn Thố, tôi lấy làm lạ nhưng khi nhìn kỹ thì rõ đây là
trường Tiểu học Cai Lậy hồi trước. Nơi đây còn ghi lại một ký ức kinh
hoàng. Học sinh đang giờ ra chơi buổi trưa đã lãnh trọn mấy quả đạn pháo
122 ly do Việt cộng bắn vào khiến cho hơn 60 em vừa chết vừa bị thương,
máu tuôn lai láng khắp cả sân trường. Tiếng la thét của trẻ nhỏ vang
thấu tận trời xanh. Tội tình gì đây. Có phải kẻ thù nhau càng dai dẳng
càng đối xử nhau dã man và tàn bạo hơn chăng?
Nhà ngoại ở trong xóm ngã ba Chùa Ông. Đi tới đầu đường, tôi không còn
nhận ra lối về nhà vì xóm nhỏ trước đây ở mặt tiền nay đã khuất sâu vào
trong hẻm. Những người mới tới xây hiên nhà lấn ra mặt đường ngang bằng
với tòa nhà 2 tầng bề thế ngay ngã ba cua quẹo trước miếu thờ Bốn Ông,
trên cao treo băng rôn màu đỏ chói Hội Liên Hiệp Phụ Nữ. Tìm quanh quất
cũng không thấy đâu cái garage đậu chiếc xe đò hiệu Liên Hưng chạy đường
Cai Lậy – Sài gòn của Bác Hai D. Con đường đất cát nhỏ hẹp giờ gồ ghề
hơn, nước đọng vũng hai bên đường đen ngòm không biết thoát đi đâu. May
gặp được Bác Hai L. ông Từ miếu Tứ Kiệt (Bốn Ông).
Khi nhận ra tôi Bác nói ngay
- Con về chi đây?
- Con về nhà chứ đi đâu Bác Hai.
- Về đây sống sao nổi. Trình diện rồi là kẹt cứng luôn.
Tuy nói vậy nhưng Bác vẫn vui mừng dẫn tôi đi đến tận căn nhà mới dời
về ở trong hốc hẻm. Tôi mời Bác vô nhà chơi uống nước cái đã. Bác từ
chối thở dài rồi quay đi.
Đứng trước ngõ mà lòng đau như thắt. Cảnh vật tiêu điều im ắng. Nhà cửa
xác xơ chìm trong bóng chiều ảm đạm. Má tôi ra mở cửa và rồi chỉ còn là
nước mắt.
Được mấy hôm, tôi lên trình diện Công an khu vực, Trung sĩ H. bảo thuộc
diện quản chế của Huyện và chỉ ra đồn trình diện. Tại đây tôi được yêu
cầu mua một cuốn sổ tay để ghi rõ tên họ và ngày giờ đi đâu làm gì trong
tuần. Hằng tuần trình diện vào buổi sáng ngày Thứ tư. Không được đi đâu
ngoài vòng 5 cây số, nếu muốn đi phải xin phép nêu rõ lý do. Thế thôi.
Hôm đầu tiên ra đồn, lúc bấy giờ còn đóng gần dinh quận trong dãy nhà
ngói trước đậy là Chi Cảnh Sát Quốc Gia, bên trái cách con đường lộ cái
là phòng thông tin quận hồi trước. Khi đến nơi tôi thấy đông người đã
tập họp ngồi xổm trên sân cát xếp thành hàng ngang hướng về hiên nhà.
Sau khi nộp sổ, tôi xuống ngồi theo hàng. Điều đầu tiên, người ngồi bên
cạnh thấy tôi là người mới nên ghé tai dặn nhỏ không được ngồi xệp xuống
đất và chỉ đứng lên khi được gọi tên, không được nói chuyện hay hỏi han
bất cứ điều gì nếu muốn về sớm. Trước khi gọi tên từng người lên để trả
sổ, thường thì Sáu H. hoặc Mười N. mặc thường phục thuộc công an huyện
đứng trên hàng ba nói vọng xuống lời sĩ nhục mọi người khoảng độ 15
phút. Có hôm còn gọi cả tên tộc để mạt sát những sĩ quan chi khu Cai Lậy
trước đây đã từng chỉ huy những cuộc hành quân truy đuổi càn quét “cách
mạng.” Mọi người im lặng, mười năm rồi, đâu có gì mới dù trong Nam hay
ngoài Bắc, cán bộ quản giáo trại giam hay công an cũng có bấy nhiêu bài,
lập đi lập lại hoài để kể tội và sĩ nhục kẻ thù, chỉ có điểu khác nhau
là tùy giọng nói mà thôi.
Từ đó, làm gì cũng phải nhớ ngày Thứ Tư tuyệt đối không được vắng mặt
dù có bị bệnh nặng đến đâu cũng phải ra đồn trình diện, trừ phi liệt
giường liệt chiếu đi không nỗi người nhà phải ra đồn báo cáo. Chưa xong,
có hôm công an huyện còn chỉ thị cho công an khu vực, nhất là vào những
ngày lễ lớn gom các thành phần đang bị quản chế lại để lao động “xã hội
chủ nghĩa” dọn vệ sinh khắp thị trấn.
Những hôm như thế tôi thường được anh em phân chia xuống khu vực bến đò
sầm uất gần cầu đúc lớn. Đùa rằng “trai khôn tìm vợ chợ đông.” Con
đường ngắn nên có dư thì giờ đi lang thang dọc theo hai bên phố bờ sông.
Kỷ niệm ngày xưa ùa về. Tôi thường hay đánh vần chữ quốc ngữ qua những
cái tên của các tiệm buôn nghe như truyện kiếm hiệp thần kỳ Lâm Thoại
Hưng hay Lâm Hoành Cơ cao chót vót trên lan can sân thượng chạm trổ phù
điêu thật tuyệt vời. Sau nầy lớn lên tôi yêu thích tiểu thuyết Kim Dung
khi liên tưởng đến những cái tên như thế.
Từ chợ cá dưới bờ sông đi ngược lên phía dinh quận là dãy phố Tàu,
Xương Xương, Châu Đức Hiền, Quảng Phát, Xuân Đức Đường … tới con đường
phân chia giữa 2 nhà lồng chợ, bên phải đi thẳng tới chùa Bà ở cuối
đường, bên trái đi một đoạn là tới tiệm thuốc tây của chú Tám Lọ bên
cạnh khu phố thầy giáo Nam. Khúc đường nầy đã ghi lại biết bao kỷ niệm
thời thơ ấu tôi thường hay theo gia đình về quê Ngoại ăn tết. Nhà lồng
chợ vắng hoe, các quầy bán đồ ba-za còn đóng cửa vào những ngày tết nên
bạn hàng thường hay bày bán khô mực nướng thơm phức được đập nhè nhẹ
trên cối đá xanh, rồi sau đó trét tương cay và phủ lên một ít đồ chua.
Kế bên cạnh là những thúng đựng trấu màu vàng nghệ, bên trong vùi hột
vịt lộn lấy ra còn nóng hổi. Chúng tôi sau khi được tiền lì xì của ông
bà Ngoại và các Cậu là dông thẳng ra đây. Năm nào cũng vậy, chỉ có mấy
ngày tết mới được ăn no những thứ nầy.
Qua khỏi đoạn đường nầy là tới đầu phía trên nhà lồng chợ, nhìn lên mấy
cây cột quanh góc chợ mà còn rùng mình nhớ lại bài học lịch sử khi xưa,
lính Tây bắt sống được nghĩa quân chống Pháp đã cắt đầu “Bốn Ông” đem
thủ cấp ra treo ở bốn góc chợ để thị uy và cho dân chúng xem. Ngày nay
vẫn còn mã “Bốn Ông” sau dinh quận.
Đối diện với góc nhà lồng chợ, ngay góc phố Lê Minh Viên là tiệm buôn
hàng máy móc, điện khí “Tân Tiến.” Hồi trước, khi còn thuộc quyền kiểm
soát phía quốc gia, hằng năm cán bộ kinh tài cộng sản có gởi giấy ra yêu
cầu đóng thuế. Chủ tiệm trả lời là chỉ đóng thuế một phía thôi, rồi còn
tuyên bố một câu xanh dờn “chừng nào mấy ông về tới đây thì tôi giao
cửa tiệm luôn để trừ thuế.”
Quả thật sau ngày 30 tháng tư, cộng sản về tới chợ quận, chưa có cải
tạo công thương nghiệp hay đánh tư sản mại bản gì cả. Ông chủ Tân Tiến
giao cửa tiệm nhà lầu 2 tầng ngay tức thì cho cách mạng không cần ký
giấy tờ hiến tặng hay khiếu nại lôi thôi. Cà gia đình trở về quê quán xã
Nhị Mỹ để sinh sống. Lúc bấy giờ người con trai lớn của gia đình là Bác
sĩ Tiến đang phục vụ ở bệnh viện Bình Dân, cuối tuần thường hay về nghĩ
thăm gia đình ở Nhị Mỹ, bệnh nhân biết được nên xuống nhà xếp hàng chờ
cả ngày, đông nghịt. Cả huyện không có phòng khám Bác sĩ tư nhân. Cha
nào con nấy, nghĩa khí ngút trời. BS. Tiến khám bệnh nhân nghèo không
lấy tiền, còn ai bệnh nặng thì chính BS. Tiến giới thiệu đi Sài gòn đến
Bệnh viện Bình Dân để chữa trị. Sau một thời gian, cộng sản theo dõi,
mời BS. Tiến lên huyện làm việc và cấm hành nghề tại địa phương. Cán bộ
bảo chưa bị bắt đi cải tạo là may. Từ đó BS. Tiến không bao giờ về xứ
nữa.
Lúc nầy ở địa phương có phong trào đi làm thủy lợi, chính quyền vận
động mọi người còn trong độ tuổi lao động bất kể nam hay nữ đều phải
tham gia hoàn thành chỉ tiêu do chính quyền đề ra, chỉ trừ cán bộ công
nhân viên chức nhà nước. Tất cả đều phải đích thân đùm túm quần áo,
lương thực đi vô sâu trong vùng giáp ranh Đồng Tháp đắp bờ làm thủy lợi,
không được thuê mướn người làm thế. Thời gian lao động “xã hội chủ
nghĩa” chia làm nhiều đợt, mỗi đợt trung bình khoảng gần tháng mới xong.
Thành phần cải tạo đang bị quản chế được xếp ưu tiên. Thà vô kênh đào
đấp thủy lợi mà đỡ điều tiếng hơn là dọn vệ sinh ngoài thị trấn.
Hằng tháng các tổ dân phố đều có tổ chức họp để kiểm điểm và thảo luận
các sự việc xảy ra trong khu phố. Các tổ trưởng ngoài thành phần cơ sở
cách mạng cũ, nay còn có thêm các thành phần mới cũng là “ngụy quân,
ngụy quyền” nhưng lại bắt đầu lên lớp với những luận điệu từ ngoài miền
Bắc đưa vào. Đế quốc Mỹ là kẻ thù số một. Ngụy quân, ngụy quyền là tay
sai của đế quốc Mỹ. Tôi đâu có lạ gì với họ, cùng ở trong xóm mà, Cô sáu
H., Hai L., Hai A. … Thường thì kết thúc buổi họp dân phố bằng những
lời tự kiểm của các thành phần “đáng lưu ý” trong khu phố, trong đó có
tôi. Lâu dần rồi cũng quen, toàn là nói dối với nhau. Nhưng điều đặc
biệt là ai ai cũng biết là không thật nhưng vẫn cứ tin cho xong buổi họp
để rồi về nhà yên thân, yên phận. Thế thôi, cũng vui.
Trong thời gian quản chế, thỉnh thoảng công an khu vực còn dẫn theo du
kích khám nhà, rọi đèn pin vào tận giường ngũ để kiểm soát. Nữa đêm mà
nghe tiếng chó sủa là mẹ tôi thức suốt đêm cho tới sáng vì lo sợ không
biết sáng mai tôi có bị gọi lên làm việc chầu chực cả buổi để viết bản
tự kiểm, kê khai hôm qua đi đâu làm gì, kể cả khi đi đám tang của người
thân. Thập thò tin đồn, không chấp hành tốt thì chẳng những không được
trả quyền công dân mà còn bị bắt đi cải tạo lại là hết đời.
Công ăn việc làm không có, đời sống vô cùng túng quẫn. Quản chế tại địa
phương là một sự giam lỏng và hạ nhục người cải tạo trở về khiến cho
không ít người sợ liên lụy không dám quan hệ. Đã khó lại càng khó hơn để
tìm kiếm việc làm mưu sinh.
Sống gần nữa đời người không có đoạn đường nào bi thương đến như thế
nầy. Chiều tối mẹ chạy chợ về ra sau võng tìm con, móc trong túi áo bạc
màu chìa ra cho con mấy điếu thuốc Đà Lạt mới mua trên đầu ngõ trước khi
về nhà. Không còn gì để nói được nữa. Tôi vĩnh viễn bỏ thuốc lá. Thầm
nghĩ chỉ còn có một con đường.
Quản chế gần nửa năm, không nghe tôi nói gì về chuyện lập gia đình với
người mà tôi đã thưa với ba mẹ là định xin đi hỏi cưới hồi cuối năm 1974
và cho đến nay cô ấy vẫn còn chờ đợi. Một hôm mẹ bảo, tội nghiệp người
ta đã chờ gần 10 năm rồi còn gì.
Tôi thầm kêu trời làm sao đây?
Cuối cùng, mẹ quyết định cùng em gái tôi ra Kontum làm đám hỏi mà không
có chú rễ vì công an địa phương không cấp giấy đi đường với lý do là
còn trong thời gian quản chế tại địa phương. Mẹ kêu trời không thấu,
nhưng vẫn đi và lễ hỏi đơn giản đã được tổ chức chu đáo với sự tham gia
của nhiều người quen cũ của tôi.
Ba tháng sau, Bác Thông lần đầu tiên vô Nam cho biết sự tình, nhất là
vì tin dữ đồn xa. Chú rễ cải tạo về đã bị tê liệt, có người đi buôn
chuyến đồn về tới chợ Kontum quả quyết rằng đã thấy “ông Phó” ngồi xe
lăn bán vé số ở hồ con rùa. Vì từ xưa đến nay chưa từng có đám hỏi nào
mà không có chú rễ. Dọc đường, Bác còn bị gạt thay vì xuống ngã tư Cai
Lậy, lơ xe quên gần tới ngã ba Cổ Cò mới nhớ và ngừng xe lại cho xuống
rồi bảo đón xe đò đi ngược trở lại mà không thối lại tiền.
Bác Thông đã bán một vạt đất vườn để lấy tiền xin phép chính quyền đi
Sài gòn chữa bệnh, nhưng kỳ thực là muốn vào quê tôi cho biết hư thực.
Trước khi đi cả gia đình cầu nguyện và Bác còn gặn hỏi con gái nếu tin
đồn là thật thì sao.
- Con vẫn thương anh ấy.
Khi Bác đến Cai Lậy mừng vui không thể tả, mười năm mới gặp lại. Ngoài
tình đồng liêu nay còn thêm tình gia đình. Bác đắc chí với câu “anh hùng
đoán giữa trần ai mới già.” Điều trước tiên Bác trình bày với gia đình
là xin cho tôi được theo đạo Công giáo. Ba mẹ tôi đồng ý.
Họ đạo Cai Lậy đã nhỏ như đa số các địa phương khác trong miền Lục
tỉnh, nay càng tiêu điều hơn kể từ khi Cộng sản tràn về chợ quận. Nhà
thờ bị dở bỏ để làm sân phơi thóc cho Hợp tác xã. Thánh lễ hằng tuần cử
hành tại nhà nguyện ở tuốt phía trong, gần mấy đìa rau nhút. Giáo dân
thưa thớt. Bác Thông xin Cha xứ cho tiến hành nhanh chóng và kín đáo nếu
có thể được để làm phép rửa tội cho tôi tại Nhà nguyện Giáo xứ Cai Lậy
dưới sự chứng kiến của Ba má tôi và Bác Thông.
Cả hai bên gia đình đều đồng ý chờ khi nào tôi mãn hạn quản chế sẽ tiến hành tổ chức đám cưới.
Khó khăn dồn dập cùng cực, lúc bấy giờ tôi mới bắt đầu quan hệ mua bán
với một số người đi sang Campuchia hằng ngày bằng đò máy qua ngã Mộc Hóa
để mua lậu hàng hóa nước ngoài chủ yếu là thuốc lá hiệu JET. Sau một
thời gian, một anh bạn thân của tôi đích thân theo đoàn người buôn lậu
sang bên đó để dò xem tình hình vượt biên theo đường bộ qua biên giới
Thái Lan để tới trại tị nạn trong vùng như thế nào. Đi được vài chuyến
anh bạn cho biết là rất khó móc nối với người địa phương nhờ dẫn đường,
hơn nữa bộ đội biên phòng của Việt Nam cài người dầy đặc nên rất khó
thoát được qua biên giới.
Quản chế được một năm, sau đó công an huyện còn gia hạn thêm 3 tháng
nữa để thử thách và sau cùng họ lại diễn tuồng lần cuối là thể theo đề
nghị của tổ dân phố tôi được đề nghị xóa quản chế có biều quyết 100 phần
trăm của nhân dân địa phương để trở thành công dân hạng thứ trong một
buổi lễ được tổ chức tại trụ sở khu phố rất trịnh trọng, tất cả không
phải vì cờ xí hay bảng hiệu màu đỏ sặc sỡ mà chính là nhờ vào điệu bộ
của ông Trưởng khu phố đang cố gắng pha nhại tiếng sao cho giống âm điệu
của người miền Bắc. Thế mới là người cách mạng chân chính, cộng sản nhà
nghề. Vỗ tay cho thật lâu và to mới được nhận quyết định. Dì Ba L. kề
tai nói nhỏ với tôi như vậy. Vui thiệt.
Lúc bấy giờ có một người thầy cũ dạy Lý Hóa hồi ở bậc Trung học còn nhớ
đến tôi và cho người nhắn về Cai Lậy bảo tôi xuống Mỹ Tho phụ giúp mở
một tổ hợp làm xà bông kem. Nguyên liệu hiếm nên hai thầy trò thử thời
vận thay vì dùng dầu dừa rất đắt đỏ chúng tôi lần đầu tiên dùng dầu trái
cao su. Từ đó chỉ việc thuê người đi nhặt trái cao su bỏ hoang từ các
đồn điền cao su ở miệt trên cho vô bao rồi chở về Mỹ Tho ép dầu thành
công. Khi tổ hợp phát triển mạnh chúng tôi đặt máy ép dầu thủ công luôn
tại chỗ và chỉ chở dầu thô về lò nấu mà thôi. Thầy trả lương tháng rất
hậu không tính bằng tiền mà là bằng vàng chỉ. Tôi vô cùng biết ơn Thầy
và biết là phải làm gì.
Chúng tôi bắt đầu âm thầm tổ chức vượt biên theo đường biển qua ngã sông Cửa Tiểu giáp ranh Chợ Gạo, quê hương tôi.
Ghe được đăng ký theo số hiệu thuôc tỉnh Tiền Gang, chủ ghe là thân
nhân của một gia đình khá giả có nhà máy xay lúa lớn và lâu đời ở cù lao
Tân Thới. Xăng dầu được dự trữ trong nhà máy xay. Khởi hành, anh
B. con ông chủ nhà máy, giáo viên ở xã sẽ chở xăng dầu ra cùng lúc với
taxi đưa khách ra ghe lớn. Mấy người con trai của ông chủ nhà máy đều
theo nghiệp của cha làm chủ các nhà máy xay lúa trong vùng Tiền Giang,
Gò Công. Đứa con gái là Sáu P. cùng chồng đã vượt biển thành công mấy
tháng trước. Tài công sẽ đưa ghe chúng tôi ra cửa biển về hướng Mã Lai.
Khi mọi việc xong xuôi tôi
và cựu Hải quân Đại úy T. thuyền trưởng định ngày ra cửa là vào một
trong 3 tối 28, 29 hoặc 30 âm lịch trong tháng. Tất cả khách đều là
người chế độ cũ, không có trẻ em. Mỗi gia đình chỉ được 2 người, không
thêm bớt, chính xác là 38 người. Phân nửa khách ở Sài Gòn và miệt trên do tôi hướng dẫn sẽ đi theo hướng Cầu Nỗi về Thị xã Gò Công vào sáng ngày 26 âm lịch.
Đại úy T. người quê quán Gò Công hiện đang cư trú tại thành phố Mỹ Tho
sẽ hướng dẫn khách từ Mỹ Tho đi xe đò về Gò Công Tây trưa ngày 26 âm
lịch. Tất cả từng tốp 3,4 người thưa ra và tập trung ở bến phà Rạch Vách
(Vĩnh Hựu) thuộc Gò Công Tây. Bên kia bờ là cù lao Tân Thới thuộc Tiền
Giang. Mọi người qua phà từng đợt, di chuyển rãi rác dọc theo cù lao.
Hai anh em ruột người địa phương là S. và S. sẽ đón ở bên cù lao rồi lần
lượt dẫn khách về nhà của họ và thân nhân chờ nửa đêm làm nhiệm vụ taxi
dùng xuồng ba lá đưa khách ra ghe lớn đang nằm sẵn ngoài khơi Cửa Tiểu
phía dưới xã Tân Phú.
* * *
Chuyến xe đò chở khách rời ga Diêu Trì rẽ theo đường quốc lộ 19 lên
Pleiku vào những ngày mùa hè nóng bức. Ngọn Tháp Chàm vẫn trơ gan cùng
năm tháng. Qua khỏi cầu Bà Di trời bắt đầu mát dịu, xe chạy bon bon,
đường đi buổi sáng rất vắng. Tiếng máy xe nổ đều đều, tôi quay mặt ra
phía ngoài cửa sổ ngóng gió phả vào mặt, gió thổi ù ù nghe vui tai. Xa
xa những xóm nhà nằm dưới chân núi nỗi bật lên giữa đồng rộng mênh mông ở
cuối chân trời. Lòng rộn vui khi qua đây, theo đường lên cao nguyên,
trở lại Kontum sau mười năm.
Đến Pleiku trời vừa chạng vạng thay vì nghĩ lại ở nhà trọ, may mắn có
chuyến xe hàng lên Kontum, tôi xin quá giang đi ngay trong đêm. Trời tối
đen khi xe vừa ra khỏi thị trấn, dọc hai bên đường rãi rác nhà cửa mọc
lên thành từng cụm, đèn điện sáng choang. Không nhận ra đèo Chu Pao ở
đâu. Đoạn đường như ngắn lại vì xe chạy nhanh mà cũng có khi do cảm giác
vì đã đi qua những đoạn đường dài Nam Bắc. Nay trở về chốn cũ thấy mọi
thứ đều nhỏ hẹp chăng?
Gió đêm cao nguyên lạnh buốt, vệt ánh sáng đèn xe phía trước rọi thủng
màn sương khói dầy đặc, không thấy được gì cả ngoài mặt đường và chỉ
canh theo đồng hồ mà đoán chừng là xe đi đến đâu. Biết là sắp đến nơi
khi có khách quá giang xuống ngã ba Phương Hòa. Nhìn thấy dãy phố chen
chúc vây quanh ngã ba mà xúc động dâng trào. Nhớ những ngày đầu tiên lên
Kontum cách nay hơn 10 năm tôi đã từng ở nơi đây với gia đình bạn Q.
Những cái tên thân quen cả đời mình vẫn nhớ. Giờ không biết ra sao, sau
cuộc bể dâu.
Khi xe đến đầu cầu Dakbla, đèn điện hai bên thành cầu sáng mờ đục soi
bóng lờ mờ phố núi Kontum rực sáng ở phía trước. Cảnh vật khác xưa nhiều
nhưng vẫn còn nhận ra dãy phố cũ đầu đường nhà Bác T. (mà Tây thường
gọi là Ovaltine). Tôi xuống xe đi dọc theo đường Nguyễn Huệ ngang qua
nhà thờ Tân Hương là tới dốc xuống nhà. Ngõ cũ giăng hàng rào kẽm gai
thưa trống, cột gỗ xiêu vẹo, bóng dài ngã theo vệt sáng lù mù từ trong
cửa sổ chiếu hắt ra gần cây vú sửa bên hông nhà. Tôi đứng trước nhà gọi
vọng vào một hồi lâu, Trâm ra mở cửa ngỡ ngàng ôm chầm lấy tôi mà nước
mắt như mưa…
Đường qua ngõ nhà em mười năm trước
Dốc Tân Hương vằng vặc bóng trăng soi.
Dốc Tân Hương vằng vặc bóng trăng soi.
Không còn là chuyện riêng tư nữa, khi tôi về đến Kontum, ngày hôm sau
nhiều người biết tin đã loan truyền nhau và lần lượt đến thăm. Chưa kịp
đi đâu thì Cha chính xứ Tân Hương Luca BT. đã xuống tận nhà để hỏi thăm.
Ơn nghĩa với Cha nặng lắm. Nhớ hồi trước, khi tỉnh thay đổi nhân sự,
khuyết chức vụ Phó Tỉnh. Trong các đời Tỉnh Trưởng chỉ có Trung Tá H. là
người sùng đạo nhất, chiều nào không bận hành quân ông đều đi lễ chiều ở
nhà thờ Tân Hương. Năm ấy tôi mới 25 tuổi còn ở ngạch trật Phó Đốc Sự
thế mà Cha đã bảo “Ông Thu giỏi, trong sạch và xứng đáng hơn cả.” Trung
Tá H. sau đó đã đề bạt tôi lên chức vụ nầy. Thế rồi thế sự đổi thay. Tôi
ra đi biệt tăm đâu biết có ngày nào trở lại?
Lần nầy khi tôi về lại Kontum, các Cha vẫn còn sống trừ Cha N. chính xứ
Phương Nghĩa đã mất trong vụ án Nhà thờ Vinh Sơn. “Sự gì Thiên Chúa kết
hợp loài người không được phân chia.” Lễ cưới chúng tôi đã được cử hành
tại giáo đường Tân Hương do chính Cha Luca BT. làm chủ tế. Tiệc ở nhà,
ngoài đông đảo bạn bè thân hữu còn lại là nhân viên cũ và hầu hết là các
Cha quen biết thuộc địa phận Kontum. Trong tiệc mừng, Cha H. tặng bức
ảnh nhà thờ Tân Hương với dòng chữ nhỏ viết tay ở góc phía dưới “Nhìn
thấy ánh sáng qua rừng cây ta biết có mặt trời. Qua đời sống hôn nhân
Thu-Trâm người nhận biết có Thiên Chúa.”
Thời gian lưu lại Kontum chỉ trong hơn 10 ngày đã để lại trong tôi một
niềm vui vô bờ bến. Họ hàng nhà gái thật vui mừng với sự trở về của tôi
cũng như hãnh diện về sự chờ đợi của cô Trâm đã trở thành đề tài cho mọi
người ở phố kể nhau nghe với lòng đầy ngưỡng mộ. Ở đâu được quí mến và
kính trọng ở đấy có hạnh phúc. Thắm thoát rồi cũng đến ngày chia tay.
Buổi tối hôm trước khi rời Kontum, chúng tôi ra cầu Dakbla đi dọc theo
thành cầu. Gió thổi mát dịu. Hai đứa lặng thinh không nói gì cả chỉ cúi
nhìn dòng sông nước chảy ngược về phía tây. Cuối cùng, nước mắt ràn rụa
qua tiếng nấc nghẹn ngào em nói:
- Em đi với anh.
Cả gia đình cha già mẹ yếu và 6 đứa em còn nhỏ chỉ sống dựa vào sạp
guốc dép ngoài chợ. Giờ em ra đi mà lòng không đành. Hy vọng mỏng manh
là đứa em gái kế có thể tiếp tục mua bán, nhưng không biết có được
không. Ban đầu gia đình dự định sau đám cưới em ở lại giúp gia đình một
thời gian rồi sẽ tính sau nhưng khi tôi cho em biết sự thật là tôi đã
chuẩn bị để hai vợ chồng về Nam đi ngay chuyến tàu vượt biên đã sẵn
sàng. Không còn đủ thời giờ để trì hoãn.
Hôm đi, sáng sớm trời còn sương lạnh, mẹ và mấy đứa em đưa hai vợ chồng
ra bến xe đò về Sài gòn. Mẹ dặn về tới nơi nhớ nhắn tin cho gia đình
biết. Nhớ năm xưa một lần đưa tiễn là mười năm. Xa xôi quá… Cứ nghĩ tới
là nước mắt lại tuôn trào. Tôi nắm chặt tay em không muốn rời ra cho đến
khi xe chạy. Khói xe mịt mùng pha lẫn với sương mù lãng đãng làm mờ
nhạt hình ảnh của mẹ và các em đang còn đứng vẫy tay theo khiến em ngất
lịm./.
Trần Bạch Thu
No comments:
Post a Comment