LDS
Danh Sách Bọn Liếm Vái VC suy diễn CÔNG NHẬN VNCH.
1- Cù Huy Hà Vũ
2- Nguyễn Nhã
3-Nguyễn Xuân Nghĩa -vịt tiềm
4-Nguyễn Tường Thụy- Cò mồi VC trong nước.
=================
Ý nghĩa của việc thừa nhận chính
thể Việt Nam Cộng hòa
NGUYỄN TƯỜNG THỤY
Bộ Lịch sử Việt Nam vừa xuất bản đang được công luận
quan tâm. Nội dung có những thay đổi về cách nhìn nhận một số sự kiện lịch sử,
trong đó, điều mà công luận quan tâm nhất là trả lại tên gọi cho chính thể Việt
Nam Cộng Hòa. Đây là vấn đề cực kỳ nhạy cảm và tế nhị vì vậy bộ sử nhận được rất
nhiều hoan nghênh nhưng còn có cả những ý kiến phản đối dữ dội.
Thực ra, không phải bây giờ mà từ 6,7 năm nay, trong hệ
thống chính trị đã đề cập về vấn đề này.
Đại đoàn kết có lẽ là tờ báo đầu tiên đưa ra luận điểm này với bài
“Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam”
(20/07/2011)
“theo Hiệp định Genève 1954, hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nằm phía Nam vĩ tuyến 17 tạm thời thuộc quyền quản lý của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH). Trong thời điểm đó, dưới góc độ tài phán quốc tế, thì Chính phủ
VNDCCH không có nghĩa vụ và quyền hạn hành xử chủ quyền tại hai quần đảo này
theo luật pháp quốc tế”
Nhưng phải 3 năm sau, vào thời điểm Trung Cộng đem giàn
khoan HD 981 xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của VN (tháng
5/2014), báo chí VN mới phản công rầm rộ. Nhiều tờ báo dẫn lại đọan trích trên
của Đại Đoàn Kết hoặc dựa theo luận điểm này để bác bỏ sự luận điểm của Trung
Cộng cho rằng Công hàm 1958 do ông Phạm Văn Đồng ký đã công nhận Hoàng Sa và
Trường Sa là của TQ.
Còn báo điện tử của Chính phủ viết:
“Chính quyền VNCH, theo Hiệp định
Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như
bằng việc triển khai chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân
VNCH chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo
Hoàng Sa năm 1974”.
Ông Trần Công Trục nguyên trưởng
ban Biên giới của Chính phủ, tức là một quan chức cao cấp có trách nhiệm trực tiếp
đến chủ quyền của đất nước, trong chương trình thời sự 19 giờ ngày 22/5/2014 của
đài VTV1 còn nói toạc ra là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nếu có tuyên bố này nọ về
Hoàng Sa, Trường Sa thì cũng chẳng có giá trị pháp lý gì:
“Các bạn hãy nhớ rằng tuyên bố của
chúng ta vào thời kỳ 1958 nghĩa là cái lúc mà hai miền Bắc, Nam được hiệp định
Genève ký kết năm 1954 phân chia quyền quản lý cho 2 nhà nước với tư cách là chủ
thể trong quan hệ quốc tế là Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Nam Cộng Hòa.
Quần đảo Hoàng Sa của chúng ta nằm dưới vĩ tuyến 17
thuộc quyền quản lý của VNCH với tư cách là chủ thể trong quan hệ quốc tế theo
hiệp định Genève, Và vì vậy, mọi tuyên bố, mọi hành vi của VNCH có giá
trị pháp lý thay mặt Nhà nước VN quản lý vùng đất ấy còn VNDCCH chúng ta không
trực tiếp quản lý. Vì vậy cho dù tuyên bố đó như thế nào thì giá trị pháp lý
trong quan hệ quốc tế không có. Cho nên TQ họ muốn dùng tất cả mọi lý lẽ để nói
rằng chúng ta thừa nhận thì đấy hoàn toàn là sự bịa đặt”.
Đấy là báo chí, còn bây giờ là chính sử. Vấn đề xoay quanh thể chế chính trị ở Miền Nam Việt
Nam, từ vĩ tuyến 17 trở vào là ngụy quyền hay Việt Nam Cộng hòa. Câu hỏi dễ trả
lời, đó là Việt Nam Cộng hòa vì đấy là sự thật lịch sử.
Xuyên tạc VNCH là ngụy quyền, Quân lực VNCH là ngụy quân
là cách gọi nhằm phục vụ ý đồ tuyên truyền của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, là miệt thị đối phương. Sau khi VNCH thua trận, cách gọi này vẫn được duy
trì, thể hiện tính hẹp hòi, bần tiện, không sạch sẽ của kẻ thắng
trận.
Trả lại tên gọi VNCH và chính thức đưa vào chính sử thì
vấn đề ảnh hưởng sâu và rộng hơn so với báo chí. Nhưng dù báo chí hay sử sách
thì về nguyên tắc, nó không phản ánh quan điểm của thể chế chính trị đương thời
mà trong trường hợp này là Nhà nước Việt Nam hiện nay. Cần phải có sự khẳng định, thừa nhận bằng văn bản hay bằng tuyên bố hoặc lồng vào
nội dung nào cũng được của Nhà nước Việt Nam hay Bộ ngoại giao Việt
Nam.
Tuy nhiên, do đặc thù của hệ thống chính trị ở Việt Nam
thì việc báo chí, đặc biệt là sử sách viết như thế nào cũng do đảng CSVN và Nhà
nước VN chi phối, vì vậy nó vẫn phản ánh quan điểm, thái độ của Nhà nước Việt
Nam.
Có ý kiến cho rằng thừa nhận VNCH là bước tiến quan
trọng. Tôi không cho đây là bước tiến. Bản chất của vấn đề là gọi lại cho đúng
tên, thế thôi. Điều này có thể ghi nhận, chứ không có gì đáng khen. Liên hệ đến
công cuộc gọi là đổi mới năm 1986 Từ chỗ nền kinh tế bị bóp nghẹt, đảng CSVN nới
lỏng ra một phần nên thoát ra được cuộc khủng hoảng kinh tế. Như vậy, cái gọi là
“đổi mới” ở đây thực chất là sửa sai, từ chỗ cấm rồi buông, trói rồi cởi. Tuy
nhiên, ông Đỗ Mười đã vơ công ấy là công của đảng CSVN: “Không có Đảng thì không
có đổi mới”. Chỉ cần đặt ra câu hỏi ai cấm, ai trói và tự trả lời thì sẽ hiểu,
công của Đảng CSVN có hay không.
Vấn đề Việt Nam Cộng hòa cũng vậy, gọi chính thể này
đúng tên cũng là việc sửa sai, có gì đáng khen. Lịch sử phải ghi lại những sự
kiện một cách khách quan trung thực như nó đã xảy ra. Đó là thiên chức của người viết sử. Lịch sử không
xu nịnh ai. Trả lại sự thật cho lịch sử là tất
yếu.
Nhiều người còn nghi ngờ sự thực tâm khi gọi đúng tên
của chính thể ở miền Nam giai đoạn 1954-1975, cho rằng việc này nhằm vào nhiều
mục đích chính trị. Có chăng, việc thừa nhận này nên ghi nhận và khuyến khích ở
sự can đảm.
Dẫu đơn giản chỉ là gọi lại cho đúng tên, thế mà nhiều
người đã giãy nảy lên, ra sức phản đối. Với họ, cứ phải gọi VNCH là ngụy quân ngụy quyền mới
được. Họ cho rằng, Giáo sư Phan Huy Lê “đánh tráo sự thật lịch sử”. Điển
hình cho nhóm người này là ông Nguyễn Thanh Tuấn, trung tướng - nguyên Cục
trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng. Ông ta tỏ ra
hậm hực và rất cay cú về bộ Lịch sử mới xuất bản, đòi xử lý nhóm biên soạn.
Đây là kết quả của sự nhồi nhét,
tuyên truyền một chiều. Sự nhồi nhét ấy đã tạo ra một lớp người còn bảo thủ hơn
cả Đảng. Đã có lời cảnh báo rằng rô bốt là sản phẩm của con người nhưng coi
chừng có ngày con người không kiểm soát nổi nó.
Nhưng ý nghĩa của việc thừa nhận Việt Nam Cộng hòa không
đơn thuần chỉ là tên gọi. Điều quan trọng ở chỗ, khi đã công nhận VNCH là một
thực thể, có giá trị pháp lý theo Hiệp định Genève tương tự VNDCCH ở Miền Bắc
thì vấn đề nảy sinh từ đó là:
- Bản chất của cuộc chiến tranh 1954 – 1975 là gì? Đó có
phải cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước như trước nay vẫn tuyên truyền
không?
- Sự có mặt của Mỹ và đồng minh của VNCH ở Miền Nam
(Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippines) có khác gì về bản chất so với sự có mặt của đồng
minh của VNDCCH ở Miền Bắc (Liên Xô, Trung Quốc, Triều Tiên) ở miền Bắc
không khi cả 2 nhóm đồng minh này đều tham chiến?
v.v…
- Và vấn đề lquan trọng nhất là tại sao quân đội VNDCCH lại có mặt trên lãnh thổ VNCH và lật đổ
nó?
Ở đây, tôi chỉ gợi mở vấn đề, chứ không có tham vọng lý
giải nó trong phạm vi một bài viết.
Dù sao thì, việc thừa nhận Việt Nam Cộng Hòa cũng đáng
hoan nghênh và là một sự can đảm cần khuyến khích. Thế hệ lãnh đạo Việt Nam hiện nay, vào năm 1975 họ
chưa có vai trò gì. Họ không phải chịu trách nhiệm về cuộc chiến tranh. Cái khó
nhất của họ là cuộc chiến tranh do thế hệ lãnh đạo trước tiến hành đã cho họ
thừa hưởng nhiều đặc quyền, đặc lợi mặc dù với dân tộc và với đất nước thì
không. Vì vậy, nếu họ dám thừa nhận sai lầm của thế hệ lãnh đạo
trước và dám sửa cũng là một sự can đảm. Họ
hoàn toàn nhận thức được bản chất của cuộc chiến tranh 1954-1975 chứ không đến
mức bảo thủ như ông trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn vừa nêu trên. Điều quan trọng
là họ có thực tâm hay không và thực tâm đến đâu Nếu biết đặt quyền lợi của đất
nước, của dân tộc lên trên hết thì những vấn đề tưởng như là phức tạp sẽ giải
quyết được. Đó là chủ quyền, biển đảo của Tổ quốc, là sự hòa giải
dân tộc, là khai thác và phát triển giá trị của Việt Nam Cộng
hòa và cao hơn là đưa đất nước tiến cùng thời đại chứ không phải hổ thẹn
với quốc dân và thế giới như hiện nay.
22/8/2017
No comments:
Post a Comment