CON ĐƯỜNG CÁI QUAN
Huế xưa
KINH THÀNH HUẾ
Tìm hiểu Cố đô Huế
Hương-Giang Thái Văn Kiểm
Ông Thái văn Kiềm là tác giả của nhiều sách biên khảo công phu trong đó có tập «Cố đô Huế» (lịch sử, cổ tích, thắng cảnh) do Nha Văn Hóa bộ QGGD xuất bản từ năm 1960. «Cố đô Huế» như vậy là một đề tài quen thuộc với Ông và Ông lại nói chuyện về đề tài này tại Trung tâm Đắc lộ Saigon, chiều thứ bảy 6.10.73, nhưng dưới các khía cạnh: «Vị trí lịch sử và địa lý, Những kiến trúc chính yếu, Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cố đô» trước khi đề cập đến "Huế huyền bí và trầm lặng". Chúng tôi xin trích đăng bài nói chuyện trên đây riêng về khía cạnh: Quan niệm và kỹ thuật kiến trúc của Cổ đô Huế.
..Kinh thành Huế khởi đắp tháng 4 năm Ất-Sửu, 1805, chiếm địa phận 8 làng: Phú-Xuân, Vạn-Xuân, Diễn-Phái, An-Vân, An-Hòa, An-Mỹ, Thế-Lại, An-Bửu; nhưng làng Phú-Xuân mất đất nhiều hơn cả, nên làng này được vua ban, ngoài số bạc bồi thường nhiều ruộng đất chung quanh Huế,ở Quảng-Trị và Quảng-Bình nữa.
Vua Gia-Long xem xét địa thế từ làng Kim-Long đến Thanh-Hà, thân chế kiểu thành, rồi mới giao cho Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến vẽ bản đồ, đóng cọc, v.v.. rồi huy động quân lính ở Kinh và mộ dân các tỉnh về làm. Chúng ta có thể xem viên Giám Thành Nguyễn-Văn-Yến như vị Kiến-trúc-sư đầu tiên của Kinh-thành Huế.
Ban đầu, thành chỉ đắp bằng đất, cho nên chỉ từ tháng 4 đến tháng 8 đã xong. Năm Đinh Mão 18o7, lại tiếp tục công việc cho đến cuối triều Gia-Long. Năm Mậu-Dần, 1818 mới bắt đầu xây gạch 2 mặt Nam và Tây, rồi đến mặt Bắc, công việc giao cho Hoàng-Công-Lý, Trương-Phúc-Đảng và Nguyễn-Đức-Sỹ, đến năm 1819 thì xong. Năm Canh-Thìn, Minh Mạng nguyên niên 182o, mưa lớn, làm đổ mất 300 trượng (phỏng chừng 1200 mét), phải sửa chữa lại. Năm Tân Tỵ, 1821, lại tiếp tục công việc và xây gạch mặt phía Đông, như vậy là cả bốn mặt đều xây bằng gạch. Qua năm Nhâm Ngọ 1822, lại mưa lớn, làm hỏng 2057 trượng (8228 mét), phải giao cho hai Kiến-trúc-sư Trần Văn-Năng và Nguyễn Văn-Vân sửa chữa lại. Sau hết, năm Giáp Thân, 1824, còn tu bổ một lần nữa, công việc mới thật hoàn toàn, tính như vậy, từ năm 18o5 cho tới năm 1824, là cả thảy 20 năm trời mới xây xong Kinh thành Huế. Lúc bấy giờ, những người có dự vào việc xây Kinh-thành đều được ban thưởng; quân lính trước khi giải ngũ về quê được lãnh tất cả 143.000 quan tiền, các quan kiến trúc và chuyên viên được lãnh mỗi người thêm 5 tháng lương.
Theo Linh-muc Léopold Cadière viết trong tập san của Hội Đô-Thành Hiếu-Cổ, số I-2, năm 1933, thì những người Pháp giúp việc vua Gia Long, không có xen vào công việc xây dựng Kinh-thành Huế, Linh mục Cadière còn nói thêm đại khái rằn:; ngoại trừ thành Gia-Định, đã được kiến thiết năm 1791, do bản đồ của Kỹ sư Lebrun, dưới quyền chỉ huy của Vệ-úy Olivier, tất cả những thành trì trên lãnh thổ Việt-Nam, tuy có tham chước ít nhiều những kiều thành Vauban, đều do những Kiến-trúc sư Việt-Nam phác họa và thực hiện.
Nói như vậy, không phải là chúng ta hoàn toàn phủ nhận ảnh hưởng của Tây-phương trong việc kiến-trúc Kinh-thành Huế. Ảnh hưởng đó có thật, nhưng người ta chỉ trông thấy nơi Thành ngoài mà thôi; còn như những cung điện lâu đài ở bên trong thì tuyệt nhiên không có gì là Tây-phương cả ; trái lại, những cơ cấu này có phần tương tự như Kinh thành Bắc-Kinh thu nhỏ lại.
oOo
Nhìn lại Kinh-thành Huế, chúng ta nhận thấy quả thật là một địa điểm sơn thanh thủy tú, trước có sông Hương uốn khúc, núi Ngự làm bình phong, hai bên có cồn Thanh Long bên tả và cồn Bạch-Hồ bên hữu, chung quanh có sông ngòi bao bọc, tạo thành một cảnh trí mỹ miều và một vị trí chiến lược có nhiều ưu điểm.
Một khi địa điểm đã được tuyên định. Bộ Lễ và Khâm Thiên Giám phải chọn ngày lành tháng tốt, để làm lễ thượng lương, với tất cả nghi thức cần thiết, đề thần linh chứng giám và tổ tiên phò trợ, đặc biệt lễ quan phải treo câu đối viết trên giấy hồng đơn:
“Lập trụ hỉ phùng hoàng đạo nhật
Thượng lương hạnh ngộ Tử vi tinh"
(Dựng cột nhà hoan hỉ gặp ngày hoàng đạo,
Cất đòn dông may mắn được sao Tử-vi)
Lễ thượng lương của ta cũng giống như lễ đặt viên đá đầu tiên của Tây-phương vậy. Điều đáng chú ý là nền kiến-trúc cổ truyền của ta chuyên lo về thượng từng cơ sở đầu tiên, còn nền kiến trúc Tây-phương lại chú trọng nơi hạ từng cơ sở trước hết.
Sau khi đã tập trung đầy đủ những dữ kiện tinh thần, người xưa mới nghĩ tới sự vận dụng những yếu tố vật chất, như là kỹ thuật, nhân công, vật liệu, tài chính v.v.. Tôi có ý để vấn đề tài chính sau hết, là vì người Á-Đông thời cổ không mấy khi dự trù ngân sách trước khi thi hành một công tác.
Về nhân lực, chúng ta phải nói tới sự đóng góp của nhiều địa phương trong nước. Theo châu-bản Gia Long thứ 4, 18o5, chúng ta được biết : tỉnh Quảng Trị phải sức đòi 4151 quân dân hạn đến ngày 20 tháng 4 phải có mặt tại Kinh-đô để khởi công, tỉnh Quảng-Bình đòi 2388 quân dân, tỉnh Quảng Nam đòi 2436 quân dân, v.v..., tổng số nhân công lên tới một vạn rưỡi. Ngoài ra, các thợ thuyền chuyên môn như thợ
làm ngói, gạch, thợ mộc, thợ nề, thợ chạm, thợ đúc, thợ rèn, v.v... cũng được các tỉnh chọn lọc, trưng tập và gửi về Kinh.
Về vật lực, hồi đó người ta lấy đá (granit) ở núi Mai Vực, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh-Hóa, cẩm thạch (marbre) ở Ngũ hoành sơn (Quảng Nam), sa thạch (grès) ở gần chùa Thiên Mụ, gỗ tốt như li, kiền kiền, gõ, ít, thì lấy ở các tỉnh Quảng-trị, Quảng-bình, Nghệ-an, Gia định, v.v... Căn cứ trên bản phúc trình của Đại úy Công-binh, Lecompte, có đăng trong tạp chí của Đô-Thành Hiếu Cổ thượng dẫn và có ghi ngày 2o mars 1875, thì dưới đời vua Tự-Đức (và có lẽ các tiền triều) đã có một lò gạch của nhà vua chuyên đúc gạch cỡ lớn, mà người Tây-phương gọi là brique mandarine lò gạch này ở ngã ba sông Hương tiếp giáp với sông Con chảy về suối nước nóng Thanh-Tân, gần trại Ba Trúc của Giáo đoàn Quốc-ngoại (Mission étrangère) do Giám-mục Sohier kiến
lập năm 1868.
Cũng theo Đại úy Lecompte, thì nhà vua có một lò ngói ở Phường Đúc, gần Hổ Quyền (Arènes); lò ngói này cũng có sản xuất gạch lát, mà bây giờ ta gọi là Ca-rô. Tất cả những ngói và ca-rô đều có phết một lớp men, vàng hay xanh tùy theo công dụng, trước khi cho vào lò. Những lò này được xây xiên theo lưng đôi để cho hơi nóng từ phía dưới lần theo lên tới phía trên, sau khi đã đi qua các lớp ngói.
Chúng ta cũng không quên những vật liệu khác như vôi và cát. Người ta lấy cát dễ dàng ở chung quanh những cồn, như cồn Giả Viên tức Bạch Hổ, cồn Hến là nơi sản xuất những con sò, con hến và bắp cồn ngon ngọt đặc biệt. Riêng về chất vôi, người ta khai thác ở chung quanh đồi Long Thọ tức Long Thọ
Cương, hay là Thọ Khương, là nơi mà sau này người Pháp đã thiết lập một nhà máy với lấy tên là Société des Chaux Hydrauliques de Long Thọ, gọi nôm na là vôi Bò Ghè, do tên của Bogaert, người đã sáng lập và trông coi lâu năm nhà máy với Long Thọ.
Sở dĩ thành quách được bền bỉ lâu dài là do nơi kỹ thuật trộn vôi với các vật liệu khác thành ra hồ (mortier) dùng để kết hợp những đá gạch liền với nhau. Vôi hồ của ta ngày xưa đại khái gồm có cát, vôi, cứ hai phần cát thì một phần vôi, rồi trộn với nước và đường tảng hoặc mật mía (mélasse de canne à sucre). Công dụng của mật mía là thêm vào hồ một chất nhớt (colle) và sẵn có chất vôi, nó sẽ tạo nên một chất kép mới gọi là sucrate de calcium, có đặc tính làm cho cứng rắn gấp bội.
Nếu cần có một thứ vôi mật thật tốt, mà người Tây-phương gọi là stuc, thì người ta trộn thêm vôi hồ một ít giấy bản, làm với vỏ cây gió (aquilaria crassana P.) một loại danh mộc, vỏ có sợi (filamenteux), thân có trầm (aloexyllum agallochum). Thứ vôi này có đặc tính bám chặt (adhésif) thường dùng để phết tường cho trơn, uốn nắn những mô hình tế nhị, như long lân qui phượng, hoặc để gắn những miếng sành vào đó cho được mỹ thuật và lâu dài.
Chúng ta thuộc về khu vực văn minh thảo-mộc (civilisation du végétal), cho nên chúng ta dùng rất nhiều gỗ mà ít dùng đá. Vì những cột kèo, đòn dông, đòn tay, rui, mè, xuyên,trến, đều bằng gỗ ráp lại với nhau theo những phương pháp cổ điển (tuyệt nhiên không có đóng đinh), cho nên những cung điện của Kinh-thành Huế có thể tháo gỡ dễ dàng, và di chuyể đi nơi khác được ; đó là trường hợp của nhiều cung điện trong Thành Nội, như cung Bảo Định ngày xưa ở phường Tây Lộc, về sau dưới đời Duy Tân thứ 2 (19o8) đã được tháo gỡ, lấy vật liệu đem về dựng lại trong sân Quốc Tử Giám lấy tên mới là Di Luân Đường, từng dưới làm giảng đường, từng trên thiết bàn thờ Đức Khổng Tử ; một phần khác của cung Bảo Định, là điện Long-An, cũng đã được tháo gỡ đem về phía sau Di Luân Đường, để làm Tàng-Thư-Viện, đến năm 1923 lại dùng làm cơ sở cho Viện Tàng-Cổ Khải Định.
Đến đây, chúng ta cần mở một dấu ngoặc, để ghi nhớ rằng trong cuộc Nam Tiến, chúng ta đã được truyền lại nhiều kỹ thuật kiến trúc tân kỳ của người Chiêm-Thành và người Chân-Lạp. Trong những kỹ thuật đó, chúng ta chú ý trước hết tới những cái vòm (are, voute, cintre) của những tháp Chàm. Những vòm này không phải là «vòm cuốn rẻ quạt (voute en éventail), mà là vòm lớp (vofteétagée), mà trong đó những lớp gạch (assises de claveaux) được sắp ngang và lần lần gần lại với nhau ; người Tây-phương gọi là «voute à encorbel lements successlfs». Những vòm cuốn chịu ảnh hưởng kiến trúc Trung-hoa; còn những vòm lớp chịu ảnh hưởng kiến trúc Ấn-Độ. Ưu điềm của những vòm lớp là không đè nặng trên các trụ chống (pilier), khuyết điểm của những vòm lớp là không thể mở rộng như những vòm cuốn rẻ quạt, và cũng không thể chịu đựng những sức nặng lớn lao ; cho nên vòm lớp chỉ có thể dùng trong kiến-trúc xây dựng cửa ngõ tháp chòi, mà không thể dùng trong việc xây dựng cầu cống, trên đó có ngựa xe qua lại.
Ngoài ra, chúng ta cũng nên chú ý tới một kỹ thuật kỳ lạ của người Chiêm-Thành, là họ có thể làm cho những viên gạch đã nung rồi dính liền với nhau mà không trông thấy chất vôi ở giữa. Là vì người Chiêm-Thành từ ngày xưa đã biết dùng một chất hồ thảo mộc (Hant végétal). Chất hồ đó chúng tôi đã khám phá được là dầu (résine) của cây dầu rái (dipterocarpus alatus.)
Tuy nhiên, nếu chúng ta nhận thấy những chân tháp Hời ở miền Nam Trung-Việt đều bị ăn lõm vào, là vì tính chất hút nước của gạch (porosité) làm cho phần dưới luôn luôn bị ẩm ướt, khi trời mưa thì nước tụ xuống dưới đã đành, tới khi trời nắng thì nước dưới đất vẫn tiếp tục bị gạch hút lên, để biến thành hơi ; lại thêm gió biển thổi mạnh vào, đem theo cát bụi và nhiều chất muối làm cho vôi hồ, gạch đá chóng hư hao mai một.
Cũng trên đường Nam tiến, chúng ta đã tiếp xúc với người Chân-lạp và họ đã truyền lại cho ta một bí quyết kiến-trúc, một chất nhựa dẻo dai của một loài thảo mộc, mệnh danh là cây ô đước, tức quế quan mà người Tây phương gọi là Cannelier de Ceylan, laurier-myrrhe, hay là Cinnamomum zeylanicum, một giống cây cao chừng 20m, mọc rất nhiều ở các rừng Nam-Việt, nhất là ở các rừng Tây-ninh, Bà rịa. Người
ta tìm róc vỏ cây ô đước, đem về giã dập rồi ngâm nước trong 24 tiếng đồng hồ, để lấy một chất nước nhớt (matière colloidale), đem lọc kỹ, rồi trộn với cát, và mật mía, làm thành một thứ vôi hồ hảo hạng. Nếu ngâm quá 24 tiếng đồng hồ, thì chất nhớt sẽ vữa thành chất nước (état liquescent).
Người Chân Lạp xưa kia, cũng như người Việt ở một thời kỳ gần đây, còn dùng rất nhiều hồ ô đước để xây nền, xây tường và nhất là những ngôi mộ. Chất hồ này có thể so sánh với chất "colle forte", khi khô nó rút cứng lại, làm cho chúng ta liên tưởng những sợi thép căng thẳng của chất bê-tông précontraint do kỹ-sư Freyssinet sáng tạo. Ngày nay, trong châu thành Saigon, chúng ta còn trông thấy bên vệ đường nhiều cổ mộ, gọi là mả đá hay mả ô-đước mà hầu hết những xà beng và búa tạ của Sở Tràng tiền đều có thể chứng minh tính chất cứng rắn phi thường của các cổ mộ này.
Cũng có một vài nơi khác, không tìm thấy cây ô đước, người ta thay thế bằng một thứ thảo mộc có nhựa, gọi là giây tơ hồng (Cassytha filiformis Lin). Tất cả những bộ phận của cây tơ hồng đều có một chất nhớt, có thể ép nó ra, rồi trộn với vôi bột, để làm thành một chất mát-tít (mastic) dùng đề trét láng những phên tường những ghe thuyền, để nước khỏi thấm vào.
Tất cả những giống cây trên kia, dù là cây gió, cây dầu, cây ô đước hay là giây tơ hồng đều có những tính chất chung, là chứa đựng một chất nhớt (mucilage visqueux), và một chất nhựa thơm (résine odorante), cả hai chất này hợp lại làm tăng thêm sức dẻo dai cứng rắn của vôi hồ và đồng thời làm cho sâu bọ phải kiêng nể...
THÁI VĂN KIỂM
Nguồn: Tạp Chí Bách Khoa
No comments:
Post a Comment