Ở TÙ VỚI...
TRẦN DẠ TỪ VÀ CÁC BẠN KHÁC
Sơ lược về người viết: Hồ
Văn Đồng là một nhà báo lớn của miền Nam. Sinh tại đất Quảng, học tại
Huế, lập nghiệp tại Saigon, ông từng là tổng thư ký, chủ bút, chủ nhiệm
nhiều nhật báo danh tiếng của miền Nam. Năm 1950, ông là người sáng lập
văn phòng Việt Tấn Xã tại Hà Nội. Những năm
sáu mươi, ông là người sáng lập, tổng thư ký Nghiệp Đoàn Ký Giả Nam
Việt, chủ tịch Hội Chủ Báo. Ông cũng là nhà báo duy nhất của Việt Nam có
hai năm tu nghiệp báo chí tại đại học Stanford, tham gia sinh hoạt báo
chí quốc tế và là Phó Chủ Tịch Liên Đoàn Báo
Chí Thế Giới đặc trách khu vực châu Á. Sau tháng Tư 1975, ông hai lần
bị Cộng Sản bắt giam, cộng chung 12 năm. Năm 1989, sau khi ra khỏi nhà
tù cộng sản, ông vượt biển, định cư tại Virginia từ 1989, tiếp tục viết
bình luận cho nhiều báo Việt ngữ tại hải ngoại.
Bài viết sau đây của ông được trích từ sách “Quê Hương Bạn Hữu Tù Đầy”
do Trung Tâm Độc Lập, Stuttgard, Cộng Hoà Liên Bang Đức ấn hành nhân
“Ngày Văn Nghệ Sĩ Việt Nam 1990” được tổ chức tại Stuttgard. Nhà báo Hồ
Văn Đồng bệnh nặng từ giữa năm 2005 và từ trần
sau đó, hưởng thọ 83 tuổi.
( ký họa của Chóe và lời chú thích )
Nhà báo Hồ Văn Đồng trong trại tù Gia Trung năm 1978 (ký họa Chóe)
Ngày
3 tháng Tư, 1976, khi công an Cộng sản mở chiến dịch hốt gọn văn nghệ
sĩ Saigon, tôi đang ở Phan Rang, ngụp đầu trong một cánh đồng
mía.
Là
một anh nhà báo về già, từ nhiều năm trước 1975, sau khi đóng cửa báo
Quyết Tiến, sang nhượng nốt cơ sở nhà in ở đường Võ Tánh cho
anh Đặng Văn Bé –chủ nhiệm báo Thách Đố, tôi thực sự về vườn, hiểu cả
theo nghĩa đen: Ra Phan Rang, tự tay tổ chức trồng dăm ba mẫu mía, vật
lộn với mấy lò nấu đường, mỗi tháng chỉ về thăm nhà ở Saigon vài ngày.
Khi
Cộng sản chiếm Saigon, dù có chung tâm sự với anh em làng văn làng báo
cũ, tôi vẫn cười cười, biểu họ: “Moa đâu còn là nhà báo. Moa
là nông dân. Lê Nin kêu nông dân là liên minh vững chắc của giai cấp
tiên phuông. Mao chủ tịch còn sửa lưng cả Lê Nin, kêu nông dân là thành
phần cốt cán. Các toa phởn phơ ở thành phố quen hư thân mất nết, ngán đi
kinh tế mới. Moa đã tự giác đi kinh tế mới
lao động sản xuất từ khuya rồi. Nông dân trăm phần trăm, còn ngán chó
gì nữa.”
Ngày
9 tháng 3, khi tôi xách cái bị lát nông dân từ Phan Rang về Saigon thăm
nhà, công an Cộng sản đã rình sẵn từ bao giờ, còng tay cái
rụp.
Tại
sở công an thành phố, trước là trụ sở Nha Cảnh sát đô thành, đường Trần
Hưng Đạo, khi cánh cửa sắt nặng nề của phòng giam mở ra, tôi
nghe nhiều tiếng cười. Một giọng nói vui vẻ vang lên: “A, Anh Đồng đen
đây rồi. Đi đâu giờ này mới chịu mò tới. Nhờ anh tí, bắt anh em chờ
mãi.” Vẫn in hệt lối nói quen thuộc trong làng báo miền Nam, thường dành
cho anh em tới trễ trong một buổi họp mặt thân
mật. Chỉ khác chút xíu: cuộc họp mặt lần này đông đảo chưa từng thấy,
mà lại là họp mặt trong nhà tù Cộng sản.
Phòng giam vuông vắn mỗi bề khoảng 5 thước, lố nhố năm sáu chục hình người, gần như nêm cứng, chen chân muốn không lọt.
“Lại đây nè, cha nội. Xớ rớ chi vậy.”
Doãn Quốc Sỹ khuân gạch ngói trong trại tù Gia Trung (ký họa Chóe)
Giọng
nói quen thuộc lại vang lên. Một anh chàng thấp lùn phe phẩy quạt giấy,
mặt mũi vêu vao, đang ngoác miệng ra cười, vẫy vẫy về phía
tôi. Tôi nhận ra anh bạn phóng viên Anh Quân. Bên cạnh là anh Doãn Quốc
Sỹ, anh Đằng Giao, anh Trần Dạ Từ … Phòng giam nêm chặt kiểu cá mòi
đóng hộp, dưới mái tôn nóng điên người, tất cả đều cởi trần, mồ hôi nhễ
nhại. Tôi chào tất cả và nói:
“Đông đảo phe ta cả, vui quá há.”
Đáp lời tôi, anh Doãn Quốc Sỹ cười hiền lành:
“Vui thật ông ạ.. Còn Khô Vinh đại sư nữa kìa.”
“Vui thật ông ạ.. Còn Khô Vinh đại sư nữa kìa.”
Tôi
nhìn theo mắt anh Sỹ hướng về một góc phòng. Trên bệ cao cầu tiêu chung
trong góc, tôi nhận ra còn có thêm anh Nguyễn Mạnh Côn. Khô
Vinh đại sư là tên một nhân vật tiểu thuyết của Kim Dung. Anh em gán
cho anh Côn biệt danh này trúng quá vì anh vốn gầy gò, người nhỏ thó,
xương xẩu giống hệt một nhà tu khổ hạnh. Ngồi trần trụi trên cầu tiêu,
Khô Vinh đại sư nhìn tôi cười cười, ra dấu chào.
Phòng
giam chúng tôi ở, được gọi bằng một tên hoa mỹ là “Tập thể hai.” Tại sở
công an, còn có khu A, khu B, tập thể một, phòng giam nữ,
và các phòng biệt giam… Thời điểm này, không kể khám Chí Hòa, Đề lao
Gia Định, trụ sở các phường quận, nghe nói bin đinh Đại Lợi và nhiều cao
ốc, nhà cửa khác trong thành phố, cũng đều đã biến thành trại giam. Số
văn nghệ sĩ bị giam ở nhiều nơi, nhưng đông
nhất vẫn là Đề lao Gia Định cũ, (nay được gọi bằng một bí số: T20) và
ngay tại Sở công an.
Ký giả Nguyễn Tú (Nhật báo Chính Luận), đã
bị bắt cùng với văn nghệ sĩ Miền Nam trong chiến dịch tổng truy lùng
của chính quyền Cộng sản ngày 3 tháng 4 năm 1976. Ông gây tiếng vang
trong làng
báo quốc tế qua những bài báo viết về cuộc rút lui của quân đội Miền
Nam từ những vùng Cao Nguyên trong những ngày tháng cuối cùng của mùa
Xuân 1975. Nguyễn Tú bị giam ở nhiều trại tù lao động trong 13 năm, ông
được thả vào năm 1989 và sau đó vượt biên sang
Hồng kông, và được bảo lãnh sang Hoa Kỳ năm 1990
Khi
công an Cộng sản bắt văn nghệ sĩ, nghe kể, họ bắt luôn vợ chồng Đằng
Giao – Chu Vị Thủy và cháu nhỏ mới sinh bẩy ngày. Chị Thủy là
con gái nhà báo Chu Tử. Có anh em nói, danh sách bắt bớ này phần chính
do Vũ Hạnh đề nghị. Vũ Hạnh thời trước, viết phê bình văn nghệ cho báo
Bách Khoa theo lối hiện thực xã hội kiểu Cộng sản, rồi nằm trong tờ Điện
Tín của nhóm Lý Quí Chung, chuyên viết những
truyện kháng chiến đường rừng.. Báo Sống của anh Chu Tử có hồi chỉ
trích đích danh Vũ Hạnh là Cộng sản nằm vùng.
Chu Vị Thủy và hài nhi trong tù (ký họa Chóe)
Khi
tôi bị bắt vô sở công an, chị Chu Vị Thủy đã được cho mang cháu nhỏ về
quản thúc tại gia. Trong số văn nghệ sĩ nằm tù Cộng sản, chỉ
có chị Nhã Ca là phụ nữ duy nhất. Suốt thời kỳ ở sở công an, chị bị
nhốt cát sô. Anh Nguyễn Mạnh Côn cười, bảo tôi: “Con mụ dữ quá.” Tuy
cười, anh rất quan tâm việc này.
Chân dung Nhã Ca (một tay đeo con thuyền Việt Nam, một tay đeo Chùa Thiên Mụ (ký họa Chóe)
Một
bữa, sau buổi “đi làm về”, có nghĩa là bị gọi đi hỏi cung, khi trở về
phòng, anh kể với chúng tôi: “Moa bảo họ là bao nhiêu tai to
mặt lớn ở miền Nam này, đâu có người nào cách mạng bắt đi tù cả chồng
lẫn vợ như trường hợp Trần Dạ Từ và Nhã Ca. Nhốt bà mẹ của 6 đứa con
nhỏ, có đứa còn chập chững tập đi, thì vẻ vang gì. Nói thật, bà ta chỉ
là một bà viết văn bình thường, chẳng hiểu biết
gì về chính trị. Nếu sách bà ta có chống cộng, ấy là do tôi mà có. Thả
bà ta về, rồi muốn tôi làm trâu làm chó gì cũng được”.
Tuy
Hồ văn Đồng thuật lại rằng “Nhã Ca là phụ nữ duy nhất nằm tù Cộng Sản,”
nhà văn Lý Thụy Ý (chủ biên tờ Văn Nghệ Tiền Phong trước
75) cũng bị bắt đi tù lao động ở rừng Bô La 3 năm. Chóe biến bút mực
của Lý Thụy Ý thành thập tự trong bức ký họa
Anh
Côn hút thuốc phiện lâu năm, đang bị vật lên vật xuống. Nhiều phen phải
cấp cứu. Một buổi tối, công an mở cửa kêu anh “đi làm việc.”
Vài phút sau đã thấy anh trở vô. Mọi người hỏi sao lẹ vậy, anh đáp:
“Tên X. gọi ra. Hắn đưa cho moa một cục, nói là cách mạng chiếu cố. Moa
trả lại hắn, bảo tôi không cần nữa. Chỉ có vậy thôi.” Tôi còn nhớ rõ, có
người hỏi “cục gì?” Anh Anh Quân, cũng là dân
từng nằm bàn đèn thuốc phiện, nháy mắt: “Cái ông này. Cục vàng chớ gì
nữa.” Anh Côn bấm vô đầu ngón tay út: “Bằng chừng này này”. Thấy Anh
Quân suýt soa tiếc rẻ, tôi nói với anh Côn: “Sao anh không cầm đại vô,
rồi cho Anh Quân nó phê cho coi.”
Chân dung Nguyễn Mạnh Côn hút thuốc phiện (ký họa Chóe)
Người
tù được cử làm trưởng phòng, anh Hoàng Phú Lâm, gia đình chủ Đệ Nhất
Khách Sạn, cũng là một quân nhân trong văn phòng ông Đại tướng
Cao Văn Viên ở Tổng tham mưu. Anh Lâm từng chính mắt thấy ông bà Viên
kính nể anh Côn như ông thầy, nên rất trọng anh Côn. Cả phòng, đối với
mấy anh em nhà văn, đều rất quí mến.
Từ
lúc hết bị thuốc phiện hành, anh Côn tươi tỉnh hơn, trò chuyện vui
hơn.. Các bạn trẻ trong phòng giam thường ngồi quanh anh, để nghe
anh kể những truyện khoa học giả tưởng rất hấp dẫn. Trong tù, có gì đâu
để ăn, anh cũng nói ăn ngon miệng hơn hồi ở nhà.
Mấy
năm trước, Nguyễn Mạnh Côn trở thành nhà thầu khoán có hạng trong quân
đội. Anh Trần Dạ Từ đã thu xếp xong từ lâu, việc anh Phạm Duy
nhường lại ngôi nhà cũ (một “dinh cơ” đồ sộ trong ngõ Chu Mạnh Trinh,
Phú Nhuận) cho gia đình anh Côn. Năm 1975, cùng với Trần Dạ Từ, “nhà
thầu” này bao dàn việc ấn loát binh thư cho Tổng cục quân huấn do tướng
Nguyễn Bảo Trị làm Tổng cục trưởng. Riêng dịch
vụ này đã lên tới cả trăm triệu bạc, lại còn đang khởi công đại tu bổ
Nghĩa trang quân đội ở xa lộ. Khi bắt anh Côn và anh Từ, công an cộng
sản dùng cả đoàn xe chở đầy nhóc toàn sách binh thư chiến thuật, dạy đủ
món, từ thủy lôi tới tổ chức biệt kích. Công
an nghe đâu còn thu cả lô quĩ phiếu mấy chục triệu bạc tiền in binh thư
chưa kịp lãnh ở nhà anh Trần Dạ Từ, hèn chi họ chả cho là ghê lắm. Các
“đồng chí” làm sao tưởng tượng nổi, ở miền Nam, đây chỉ là việc làm ăn
bình thường, người thầu khoán vớ vẩn nào cũng
có thể như vậy.
Trong
tù, nhiều khi vui chuyện có lần anh Nguyễn Mạnh Côn kể: “Một lần hai
anh em vô Tổng tham mưu thăm Trung tướng (Nguyễn Bảo) Trị,
khi ra tớ bảo Từ hỏng rồi cậu ạ. Một anh thi sĩ, một anh nhà văn, mở
miệng ra toàn là thấy tiền với bạc. Xe vô một chỗ thế này thì anh em
lính canh phải đứng đón, mở cửa. Vậy thì còn chó gì là thi sĩ với nhà
văn nữa. Cứ điệu này, chắc tiêu tùng luôn.”
Anh nói thêm, một cách nghiêm chỉnh:
“Cái
vụ anh em mình ai nấy sạch sẽ vô tù, không chừng là vớ bở to đấy các
cậu ạ. Tin lời tới đi.. Biết đâu, nhờ đó mà nhà văn nhà thơ
tái sinh.”
Anh Doãn Quốc Sỹ kết luận:
“ Mèo lại hoàn mèo.”
Chân dung nhà thơ, nhà giáo dục Nguyễn Sỹ
Tế (còn có bút hiệu là “Người Sông Thương”). Ông bị giam tù 12 năm ở
trại Gia Trung và Hàm Tân. Họa sĩ Chóe phác họa chân dung ông như một
nhà tù “thâm
niên” sống trong thời Trung Cổ ở Âu Châu
Chúng tôi đều cười, mừng cho sự tỉnh táo lạc quan của bạn, khi bạn đã chia tay được với nàng tiên nâu.
Nhưng cũng ngay thời gian ở sở công an, anh Côn bắt đầu nói về cái chết. Một bữa, anh bàn với tôi:
“Lần
này, sống mà về được, hai anh em mình phải xuống Thủ Đức, tìm một khu
đất riêng, làm sẵn một “sanh phần” cho bọn mình, ông ạ.”
Sanh
phần là ngôi mộ làm sẵn. Thấy chúng tôi bàn hoài chuyện trồng cây, đào
huyệt cho mình, anh Trần Dạ Từ gạt đi, kêu là thời của bọn
đỏ mà tính chuyện vớ vẩn.
Anh Côn nói với anh Từ:
“Không
vớ vẩn đâu, cậu ạ. Đỏ đen gì cũng chỉ là nhất thời. Thời của họ cũng
chẳng lâu lắt gì. Các cậu sẽ được nhìn thấy nó phải sụp đổ
như thế nào. Ở tuổi của Từ, điều này chắc như đinh đóng cột. Thế hệ các
cậu, chính cậu, sẽ phải góp phần làm cho nó đổ, rồi rán mà gánh vác lấy
việc thu dọn sau đó. Còn tớ với ông Đồng đen, bọn tớ già rồi, xong phần
mình rồi. Bọn tớ nhất định cứ đi tìm đất
làm sanh phần như thường.”
Anh
Nguyễn Mạnh Côn là tác giả cuốn “ Chống Mác xít,” nhiều năm phụ trách
phần bình luận phát thanh bằng tiếng Pháp của đài Saigon. Anh
rất giỏi toán học, khoa học, anh viết văn, viết báo hình như bằng thứ
chữ nghĩa chính xác của nhà toán học nhiều hơn là chữ nghĩa kiểu nghệ
sĩ. Sau hiệp định Paris, anh Côn cho phát hành cuôn sách dầy cộm, mang
tên “Hòa Bình, nghĩ gì, làm gì?” Những người
từng chỉ huy ngành chiến tranh chính trị, cao đẳng quốc phòng, như các
tướng Vĩnh Lộc, Trần Văn Trung, Nguyễn Bảo Trị… đều tâm phục anh.
Có
ông bạn dược sĩ già, nói là thông gia với gia đình nhà báo Đỗ Quí Toàn,
ở tù cùng phòng, không khoái mấy chuyện xây sanh phần, nhưng
nghe anh Côn bảo thời của bọn đỏ chẳng lâu lắt gì, thì như người vừa
uống xong thuốc bổ, nhất định bắt cả anh Côn lẫn tôi phải xài tiếng
Pháp, phân tích thật kỹ cho ông nghe.
Ông
bạn dược sĩ già trong buổi truyện trò năm nào hiện đang ở khu Irvine,
Nam California. Vợ chồng Trần Dạ Từ ở Thụy Điển. Tôi vừa vượt
biển vô được đất Mỹ. Đằng Giao, Anh Quân còn bên nhà... Anh Doãn Quốc
Sỹ đang tiếp tục nằm trong nhà tù. Riêng anh Nguyễn Mạnh Côn không còn
nữa. Lời xưa anh nói, chỉ hơi sai một chút: Chúng tôi không còn dịp cùng
nhau xuống Thủ Đức, tự trồng cây, đào huyệt,
lo lấy sinh phần cho mình.
Đúng
hai năm sau ngày anh Trần Dạ Từ ra khỏi nhà tù Cộng sản, cũng đúng một
năm sau ngày Văn Bút và chính phủ Thụy Điển đón tiếp gia đình
anh ở Stockholm, ngày 9.9.1989, bạn hữu văn giới ở Hoa Kỳ đã họp mặt
mừng anh tại một nhà hàng ở Nam Cali.
Cùng
với các anh Nguyên Sa, Phạm Duy, Mai Thảo, Tạ Tỵ, Viên Linh, Lê Đình
Điểu và nhiều anh em khác, tôi đã có dịp nói về chuyện ở tù
cộng sản với Trần Dạ Từ và bạn hữu. Tiếc thay, khi chỉ vừa nhắc tới
trái chuối, củ khoai hai anh em có lần bẻ cho nhau trong tù, là tôi đã
òa khóc ngay trên diễn đàn, không sao nói được thành tiếng nữa. Sức lực
tuổi già tệ hại quá. Bao nhiêu năm trong ngục
tù, anh em nhà văn nhà báo bên nhau đâu có ai nhìn thấy nhau khóc. Tất
cả chúng tôi, ngay trong ngục tù, vẫn ráng tươi cười với nhau.
Tôi
thú thật không hề biết gì về văn thơ. Về thơ Trần Dạ Từ cũng vậy. Chỉ
biết anh trong nghề làm báo. Tờ nhật báo cuối cùng của anh Từ,
trước khi đóng cửa vì luật báo chí VNCH đòi chủ báo thế chân 20 triệu,
in trong nhà in của tôi ở đường Võ Tánh.Vị trí làng báo Saigon dành cho
Trần Dạ Từ làm tôi ngạc nhiên, cứ tưởng anh phải là một người lớn tuổi
hơn. Khi gặp, tôi mới biết anh sinh năm 1940.
Thời đệ nhất Cộng Hòa, cả miền Nam chỉ có 9 nhật báo. Năm 1962, anh
Trần Dạ Từ đã là Tổng thư ký nhật báo Dân Việt, một tờ báo gốc Thiên
Chúa giáo cánh Bắc. Anh Chu Tử viết truyện dài và mục Ao thả Vịt nổi
tiếng, là từ báo này. Sau 1964, bộ biên tập bạn hữu
của Từ sẽ còn điều khiển các tờ báo có lúc có số bán vượt mức như Sống,
Hòa Bình, Độc Lập.
Tú Kếu (tên thật là Trần Đức Uyển), tác
giả của 1001 bài thơ trào phúng trước 1975, cũng là chủ biên của tuần
báo Sống. Sau 1975 ông bị án tù 18 năm vì tội âm mưu tuyên truyền chống
chính quyền,
nhưng nhờ tài sửa TV trong tù, ông được thả ra khỏi tù trước khi bản án
mãn hạn (ký họa Chóe)
Sau
khi bị cầm tù thời Phật giáo tranh đấu năm 1963, ra tù, Trần Dạ Từ vẫn
tiếp tục làm tờ Dân Việt, nay đã đổi tên thành Việt Báo, do
anh Phương Linh làm chủ nhiệm.Tôi còn nhớ đây là lúc thịnh thời nhất
của Phật giáo miền Trung. Tờ “Lập Trường” do nhóm các anh Tôn Thất Hanh,
Lê Tuyên, Cao Huy Thuần xuất bản ngoài Huế, làm mưa làm gió, tới mức
đòi phải thiên đô ra Huế. Bài quan điểm đòi Thủ
đô chính trị phải là Huế thì viết rằng gần mực thì đen. Thủ đô chính
trị phải là Huế, gần đèn, mới mong rạng được.
Thời
ấy, cánh chính khách theo các thầy ngoài Huế đang lên chân. Chủ báo
Lập Trường được mời vô Saigon làm Hội đồng Nhân Sĩ. Chính nghĩa
chống độc tài quân phiệt rạng ngời, phần lại lo bị chụp mũ cần lao, chế
độ cũ, làng báo Saigon êm re.
Chính
lúc đó trên tờ Việt Báo xuất hiện loạt bài ký rõ tên Trần Dạ Từ, minh
danh “hỏi thăm” anh em nhóm Lập Trường, từng điểm một rành
rọt. Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, phần quan điểm thời cuộc do anh
Nguyễn Mạnh Côn, thường viết với bút hiệu Đằng Vân Hầu, gọi việc anh Từ
ký rõ tên cho loạt bài này là sự dại dột đáng kính trọng của người làm
báo. Còn nhớ, lãnh tụ sinh viên nổi danh thời
1964 là anh Nguyễn Trọng Nho, tuyên bố tán thành các luận cứ của Trần
Dạ Từ. Làng báo Saigon bắt đầu hưởng ứng. Báo Lập Trường im, một thời
sau, tự đóng cửa. Cao Huy Thuần lấy học bổng đi sang Pháp học. Sau 1975,
báo Cộng Sản ở Hà Nội nói Cao Huy Thuần là
nhà nghiên cứu, chuyên về tiểu sử Hồ Chí Minh.
Sống
với nhau trong tù, nhất là qua anh Côn lúc đầu, biết thêm về anh Trần
Dạ Từ, tôi càng ngạc nhiên hơn. Hóa ra anh Từ còn lạ hơn tôi
tưởng. Thấy anh hồi ngoài hai mươi tuổi đã làm tổng thư ký một tờ nhật
báo công giáo, lại là người đưa hồi ký của Linh Mục Cao văn Luận lên báo
Độc Lập, tôi đinh ninh anh phải là công giáo thì anh lại là một Phật
tử. Trong bộ biên tập anh Từ điều khiển và
bạn hữu anh, nhiều người là đại khoa bảng. Tôi đinh ninh anh phải là
người học hành ghê lắm, hóa ra anh chưa học xong tiểu học. Tiếng Tây,
tiếng Mỹ bập bẹ, cùng lắm chỉ đủ để đoán mò ra nội dung bản tin viễn ký
hàng ngày, trước khi trao cho người phiên dịch
trong tòa báo. Thì ra, người bạn đồng nghiệp trẻ của chúng tôi, vốn
xuất thân chỉ là cậu bé bán báo, mười hai tuổi đã sống ngoài lề đường.
Tết
năm 1955, trước khi người Pháp rời hẳn Việt Nam, đài Pháp Á ở Saigon tổ
chức giải thơ, phần thưởng lớn gấp ba đài Saigon. Người tới
đòi lãnh giải nhất là một cậu bé 15 tuổi mặc quần sọoc. Chủ sự chương
trình Pháp Á là anh Hoàng Cao Tăng phải họp hội đồng giám khảo lôi cậu
bé ra thử tài đủ kiểu, buộc anh Hồ Đình Phương, thư ký hội đồng, phải
lập biên bản, ký bảo lãnh, mới chịu phát cho
cậu bé mấy ngàn bạc tiền trúng giải. Năm 1956, vẫn cậu bé, lại đoạt
giải nhất giải truyện ngắn của tuần báo Nhân Loại, do anh Tam Ích coi
ban giám khảo. (Người đoạt giải nhì là anh Lê Vĩnh Hòa, sau này là nhà
văn liệt sĩ của Mặt Trận Giải Phóng). Anh Hồ Đình
Phương phụ trách trang “Bình Thơ” trên báo Văn Nghệ Tiền Phong dành cả
4, 5 kỳ báo bình thơ cậu bé khác thường này.
Bước
vô làng báo chuyên nghiệp, cậu bé làm thơ văn ấy phải làm từ việc thầy
cò, viết lấp chỗ trống đủ các mục, từ tin cán chó, tới bài
quan điểm, rồi mới thành Trần Dạ Từ.
Hồi
còn tù ở Sở công an, anh Nguyễn Mạnh Côn có lần nói với tôi: “Có dịp,
ông nhớ bắt tên Từ học thêm, phải cho nó thật giỏi tiếng Pháp.”
Anh Côn kể từ lâu đã bắt anh Từ học thuộc bản tuyên ngôn của Đảng cộng
sản bằng tiếng Tây. Tôi nghe mà phì cười. Học kiểu ấy thì làm sao mà khá
cho nổi.
Hồi
hai anh em cùng nằm một chiếu ở trại khổ sai Gia Trung, đến phiên tôi
dạy anh Từ học thêm tiếng Pháp. Lại có thêm một chuyện buồn
cười.. Không khá gì hơn ông thầy Nguyễn Mạnh Côn, anh Từ lại phải tộng
cho bằng hết toàn văn Lê Nin bằng tiếng Tây, nhờ hình Lê Nin, mà sách
gửi được vô trại tù.
Tụng
kỹ Lê Nin quá, có lần anh Từ nói: “Có dịp, anh em mình ph đượcải chú
giải lại Lê Nin bằng sự việc ông ạ. Tức cười thật, thì ra trí
tuệ phương tây bị chữ nghĩa bắt nạt, chả hiểu gì cả.”
Năm
1977, cũng tại Gia Trung, chị Nhã Ca đi cùng vợ tôi lên thăm, sau đó
anh Từ cho tôi biết anh Mai Thảo, sau cả năm bị lùng bắt, đang
ở trong nhà anh trên đường Tự Do. Tôi với anh Doãn Quốc Sỹ nhìn nhau,
không biết nói sao.
Nhà văn Mai Thảo được Chóe vẽ đang ngồi
trên xe xích lô đạp (đây là phương tiện giao thông duy nhất của Mai Thảo
ở Sàigòn trước 1975). Sau 2
năm lẩn trốn sự truy nã gắt gao của chính quyền Cộng sản, ông vượt biên thành công và sang Mỹ năm 1978, qua đời ở quận Cam năm 1998
Đầu
năm 1978, thân nhân anh Mai Văn Lễ (Khoa trưởng luật khoa Huế, nguyên
phó chủ tịch Hội đồng kinh tế quốc gia, rất thân quí anh Từ)
lên thăm cho hay chị Nhã và lũ nhỏ bị đuổi khỏi nhà, trục xuất khỏi
thành phố.
Suốt
cả năm không có tin nhà, chả biết vợ con sống chết ra sao, anh Từ không
hề hé răng nói một câu lo lắng, vẫn bình tĩnh tụng Lê Nin
toàn tập.
Anh Doãn Quốc Sỹ sau này, trong tù, sẽ thay tôi đọc cả chục bài thơ của Trần Dạ Từ, bằng tiếng Tây.
Nói rằng trong tù không hề khóc, với tôi, cũng sai. Tôi đã có hai lần khóc.
Một
lần, khi làm việc trực nhật, xuống bếp trại bưng nồi cơm, thấy mấy hạt
cơm rơi phía ngoài nồi, trước mặt đông đủ anh em, tiếc của
trời, cho là thường, tôi bốc bỏ vô miệng.
Hôm
sau, có người báo là bọn cán bộ bảo đội trưởng phải họp đội, mang tôi
ra đấu tố vì tội lượm cơm của đội ăn riêng. Anh Từ bảo riêng
tôi: “Nó muốn kiếm chuyện, chọc mình cãi lại cho có cớ bêu xấu rồi
nhốt. Chuyện không đáng. Đừng dại húc đầu. Anh đừng thèm cãi tiếng nào.
Nhận ngay lỗi, tự mình xin chịu biện pháp kỷ luật nặng nhất. Vậy là hết
chuyện để nói qua nói lại.”
Phiên
họp đội đấu tố được tổ chức. Tôi nói, bao năm rồi tôi vẫn nhớ nguyên
từng chữ, như sau: “Tôi xin nhận hết tội lỗi đã bốc cơm của
đội và của nhân dân bỏ vô miệng. Năm nay tôi gần 60 tuổi, một người
chừng ấy tuổi mà không ra gì, bốc cả đến mấy hạt cơm rơi bỏ vô lỗ miệng,
ngay trước mặt bao anh em khác, thật làm tất cả phải xấu hổ. Tôi xin
nhận hết tội lỗi to lớn này. Xin các anh em hãy
hăng hái phê bình. Xin cán bộ hãy cho tôi hưởng hình phạt nào nặng
nhất, như cúp phần ăn hoặc đi kỷ luật, để giúp tôi tự sửa mình. Xin
hết.”
Mọi
người nhìn nhau, không thấy ai đấu tố. Sau đó cũng không thấy hình
phạt. Chúng tôi cũng chỉ lặng lẽ cười với nhau. Ít lâu sau, khi
nghe tin anh Nguyễn Mạnh Côn chết, lại nghe kể trước khi chết miệng anh
còn kêu cơm cơm.. Tự nhiên, tôi bỗng thấy mình khóc.
Tôi còn khóc một lần nữa, khi chuyển trại.
Được
rời khỏi đội khổ sai nặng nề nhất trại, bị gọi là đội trừng giới, với
nhiều người, là cái may. Với tôi, thì vậy là phải xa anh Từ
và bạn hữu.. Trong tù, anh Từ là người lặng lẽ, không bao giờ chịu hái
một cây rau cọng cỏ hoặc kiếm thêm củ khoai củ sắn, chính tôi vẫn thường
lo cho anh.
Gặp nhau lần cuối bên bờ suối, kiếm được trái chuối củ khoai, tôi dúi vội cho anh.
Khi quay đi, một lần nữa, tôi thấy mình lại khóc.
Xin các bạn họp mặt hôm 9.9.1989 chào mừng Trần Dạ Từ tha lỗi cho tôi, đã vì khóc mà bỏ ngang phần phát biểu.
Hoa Thịnh Đốn, tháng 3.1990
No comments:
Post a Comment