=============
Nhìn lại lịch sử từ một nạn nhân của di sản cường quyền trên bước đường tị nạn
Vài
lời của Gđ:
…Từ những chuyến ghe vượt biển trốn
thoát khỏi chế độ Cộng sản do Hà Nội lãnh đạo để tìm lối thoát
“giải hoặc lịch sử” - những người Phật tử, đặc biệt là những
người lãnh đạo trong phong trào Phật giáo chống các chế độ phi-dân-tộc,
độc tài, giáo trị và quân phiệt ở miền Nam, họ vẫn tiếp tục là những
nạn nhân của Công giáo tìm cách trả thù, ám hại. Mà hai ông Hoàng Văn
Giàu và Nguyễn Xuân Thu là các trường hợp điển hình. Chúng tôi gặp gỡ
hai ông H.V.G. và Nguyễn Xuân Thu (tốt nghiệp tiến sĩ giáo dục ở Mỹ, từng
làm Đổng lý Văn phòng Bộ G.D. trước 1975) ở trại tị nạn Songkhla vào
tháng 8/1980, và có rất nhiều kỉ niệm và liên hệ với họ, dù tình đạo,
tình anh em chỉ mặn nồng trong vòng 3 tháng thì tôi phải lên đường chuyển
qua trại Galang ở Nam Dương...
Năm 1981, Khai Phóng
là một tạp chí của cư sĩ Phật giáo đầu tiên trên đất Mỹ, mở đường
cho tiếng nói giải hoặc lịch sử, trong số 4, tháng 6/81 có đề cập đến
tai ương chính trị mà ông H.V.G. đã gặp phải trên bước đường “lưu
đày” của Trường Giang qua tựa đề : “Thêm một nạn nhân của nạn lộng
quyền ở trại tị nạn Songkhla: Hoàng Văn Giàu”. Nhưng bởi số lượng báo
phát hành hạn chế, và ở vào thời điểm còn rất ít dư luận biết đến;
do đó, đến hơn hai thập niên sau, ngay cả một số Phật tử vẫn còn ngộ
nhận về ông H.V.G. do lối lạc dẫn sự kiện lịch sử của kẻ thù.
Chúng ta hiểu rằng một số Phật tử hiện nay thù ghét Trung Cộng không
những vì chính sách xâm lăng Tây Tạng là một linh địa của Phật Giáo,
mà ngay cá nhân lãnh đạo Hồ Cẩm Đào là kẻ đầu tiêu đã đàn áp thẳng
tay các phong trào đòi dân chủ và độc lập của Tây Tạng. Nhưng đó là
sự thật lịch sử. Trong khi đó, ở Việt Nam, chế độ Hà Nội vì âm mưu
chính trị, có thể đã “đồng lõa’ với các thế lực đen cố tình hạ
thấp và làm sai lạc chính nghĩa các phong trào chống độc tài, đàn áp
tôn giáo, vận động dân chủ… đặc biệt từ thời của chế độ Tổng
thống Diệm ở miền Nam. Do đó, việc cho đăng lại bài viết này để làm
sáng tỏ lịch sử là một điều cần thiết. Chúng tôi sẽ có một bài viết
chi tiết về sự gặp gỡ với Ông H.V.G. ở trại tị nạn Songkhla
sau. Thường Đức.
- Chụp bên bờ biển trại Songkhla, Thailan tháng 9-1980 với đoàn thanh niên Phật tử -GĐ
Nạn
Nhân Mới Của Tệ Nạn Lộng Quyền ở Songkhla : Hoàng Văn Giàu
nguồn: Khai Phóng - Số 4, phát hành
ngày 15/6/1981
1.
Về Hoàng Văn Giàu:
Hoàng Văn Giàu nguyên là Giảng viên của
Đại học Văn Khoa và Sư Phạm Huế về môn Triết học và Phê bình Văn học
sử. Anh cũng là Nghị viên (dân cử) của Hội đồng Thị xã Huế (1966).
Anh được quần chúng Miền Trung nhất là Phật tử biết đến nhiều như
là một người đã tích cực hoạt động trong các phong trào của Phật
giáo như : Vận động tự do tín ngưỡng và công bằng xã hội (1963). Vận
động Dân chủ và Thành lập Quốc Hội Lập Hiến (1960). Nhắc lại là
phong trào này đã bị đàn áp thẳng tay. Chẳng phải vì những nguyện vọng
không đúng. Bằng chứng là ngay sau khi phong trào bị dập tắt, “Nội các
chiến tranh” của Nguyễn Cao Kỳ đã tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến,
Tổng thống, Thượng và Hạ Viện. Điều khác biệt giữa chính quyền và
phong trào lúc đó là những kẻ nắm quyền (Thiệu-Kỳ) thì chỉ muốn
dùng tiến trình dân chủ để hợp thức hóa địa vị trong khi phong trào lại
muốn Nam Việt Nam có một chính quyền thực sự dân chúng ủng hộ rộng
rãi để đương đầu với những tuyên truyền, phá hoại của Cộng Sản.
Năm 1965, chính phủ Phan Huy Quát đã chứng minh điều ấy có thể làm được.
Rủi cho Ông là Ông chỉ nhận được sự ủng hộ của dân chúng chứ
không phải của các tướng lãnh đầy tham vọng chính trị.
Năm 1966, khi phong trào này bị hai tướng
Nguyễn Cao Kỳ và Nguyễn Ngọc Loan đem quân từ Sài Gòn ra Đà Nẳng đàn
áp, tất cả các quân nhân và công chức (ít nhất khoảng 5.000 người) có
dính líu đến phong trào đều bị sa thải, bị kỷ luật hoặc bị thuyên
chuyển ra khỏi Vùng I / CT. Riêng Hoàng Văn Giàu bị tước bỏ hết các chức
vụ, kể cả chức vụ dân cử và bị truy nả. Anh phải ẩn tránh trong
các ngôi chùa ở Huế và đến tháng 11 năm 1966, vào Sài Gòn trú tại Trung
Tâm Văn Hóa Quảng Đức, cũng là trụ sở của Tổng Vụ Thanh Niên của
Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, số 294 Công Lý, Sài Gòn. Đây
là điều mà ngay hiện giờ tại Hoa Kỳ, nhiều đồng bào biết rõ và sẵn
sàng làm chứng. Dĩ nhiên, chính quyền Thiệu-Kỳ biết Anh ở đây, nhưng vì
không muốn làm căng thẳng lại không khí đàn áp đẫm máu tại miền
Trung vừa qua, nên họ làm ngơ để Anh ở yên. Năm 1967, Anh được nhận làm
Giảng viên tại Đại Học Vạn Hạnh, phân khoa Nhân Văn. Đây là một sinh
hoạt công khai, chắc chắn là nhiều giáo sư, sinh viên và những ai có để
ý đến đều nhớ. Tháng 3 năm 1969, chính quyền Thiệu-Kỳ bắt giam Thượng
Tọa Thiện Minh cùng với khoảng 20 phụ tá trong giới thanh niên và sinh
viên, trong đó có Hoàng Văn Giàu. Tòa Án Quân Sự Mặt Trận ngày 17-3-1969
đã kết án Thượng Tọa Thiện Minh 10 năm khổ sai vì tội chống lại
Chính phủ Thiệu-Kỳ. Hai mươi người trong giới thanh niên, sinh viên bị kết
án từ 1 năm đến 5 năm và tịch thu Trung Tâm Quảng Đức của Giáo hội.
Nhưng sau đó vì áp lực nặng nề của “Ủy Ban Vận Động Hủy Bản Án
của Thượng Tọa Thích Thiện Minh” gồm những thân hào, nhân sĩ, trí thức,
tôn giáo trong nước và các Giáo hội Công Giáo, Tin Lành tại Âu châu và Mỹ
châu kể cả Bộ Ngoại giáo Hoa Kỳ và Giáo sư George Mc T. Kahin, giáo sư chính
trị học tại Đại học Cornell và cũng là cố vấn cho Chính phủ Hoa Kỳ,
đặc biệt có một phải đòan Liên Tôn Quốc Tế, do Giám mục George
Amstrong đã vào tận nhà tù thăm viếng Thượng Tọa Thiện Minh. Do đó,
ngày 1 tháng 11 năm 1969, Nguyễn Văn Thiệu phải ra sắc lệnh đặc biệt hủy
bản án Thượng Tọa Thích Thiện Minh đồng thời cũng phóng thích tất cả
những thanh niên và Sinh viên liên hệ.
Năm 1969, Hoàng Văn Giàu nhập ngủ và
phục vụ tại Sư đoàn 9 BB, rồi Sư đoàn 21 BB đến năm 1971 thuyên chuyển
về Cục An Ninh Quân Đội, khối Phản Tình báo cho đến ngày 30-4-1975, Cộng
sản chiếm Miền Nam. Trong khoảng thời gian này, từ công tác, hành vi đến
thái độ chính trị của Hoàng Văn Giàu, ít ra cũng có một người hiên
ngang ở Hoa Kỳ biết rõ, đó là Trung tá Nguyễn Trọng Thận, người chỉ
huy trực tiếp của Hoàng Văn Giàu. Mặt khác, vì phá vỡ âm mưu của Cộng
sản cho người trà trộn vào hàng ngủ Thanh niên và Sinh viên Phật tử tại
Trung Tâm Quảng Đức, nên đài phát thanh “Mặt Trận Giải Phóng” thường
xuyên lên án và hăm dọa có biện pháp trừng trị Thượng Tọa Thiện Minh và Hoàng Văn Giàu, lúc bấy giờ là Vụ Trưởng
Sinh Viên Phật tử Vụ thuộc Tổng Vụ Thanh Niên của Giáo hội.
Do đó, sau này T.T. Thiện Minh bị CS bắt
và thủ tiêu cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. Riêng Hoàng Văn
Giàu, ngay trong tháng 5 năm 1975, khi Cộng sản vào chiếm Miền Nam, Anh đã bị
bắt tại cổng của Viện Đại Học Vạn Hạnh sau khi dự lễ Phật Đản
ở đây ra về. Anh đã bị Cộng sản bắt giam suốt 25 tháng tại Trại
Phan Đăng Lưu (trại Lê Văn Duyệt cũ). Người bị giam chung trại lúc bấy
giờ với Anh hiện nay có mặt tại Hoa Kỳ là Anh Đoàn Văn Toại.
Sau khi ra tù, nhiều lần tham sự vượt
biển nhưng thất bại, mãi đến năm 80, anh mới thành công và đến trại
Songkhla ngày 26-3-1980, ghe số KG 1612, chở 40 người.
2.
Vụ Hoàng Văn Giàu:
--Cái rủi đầu tiên của Hoàng Văn
Giàu khi đến Trại Songkhla là gặp lúc “tay tổ” tham nhũng, xách nhiễu
đồng bào là Vũ Văn Hải đang làm Trưởng ban An ninh của Trại
(đã nói ở trên);
--Cái rủi thứ hai của Hoàng Văn Giàu
là đáng lý những ân oán (dù ân oán đó chỉ là sự hiểu lầm) trong quá
khứ nên xem là đống tro tàn, chẳng nên khêu lại, nhất là sau biến cố
đau thương 30-4-1975 đã làm cho đồng bào Việtnam nếu không có chung một
ước nguyện trong quá khứ thì chắc chắc cũng cùng chung một ước vọng
trong tương lai, nên keo sơn gắn bó với nhau --đáng lý ra là như thế--
nhưng thực tế thì không. Sự kiện chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ
năm 1963 đã là một ám ảnh nhức nhối, khó chịu cho một số người (tôi
chỉ nói một số người mà thôi). Những người này nghĩ lầm rằng Phật
giáo chính là thủ phạm làm sụp đổ chế độ Diệm và do đó, Phật
giáo chính là kẻ đã làm mất đi những ân sũng, những đặc quyền, đặc
lợi của họ. Vì nghĩ như vậy, nên Phật giáo đối với họ là kẻ thù.
Trước 1975, khi còn trong nước, Phật giáo đã là đối tượng của những
vụ trả thù dưới nhiều hình thức. Sau 1975, tại hải ngoại, Phật giáo
cũng còn tiếp tục là đối tượng của những vụ trả thù, phá hoại cũng
dưới nhiều hình thức. Cả Giáo hội của một quần chúng to lớn mà còn
bị người ta miệt thị công khai là “bọn Ấn Quang”, Thượng Tọa Thiện
Minh đã hy sinh trong lao tù Cộng Sản mà còn bị họ thóa mạ một cách rất
hài lòng và sung sướng là “Thích Thiện Minh đã đền tội”. Huống nữa
là một cá nhân Phật tử như Hoàng Văn Giàu!
--Cái rủi thứ ba của Hoàng Văn Giàu
là vì anh là một nhân vật khá nổi tiếng trong giới thanh niên, sinh viên
Phật tử trong các phong trào vận động của Phật giáo Miền Trung từ
1963-1966. Đã trả thù Phật giáo thì làm sao tha thứ được một cán bộ
đắc lực như vậy ?.
Chính vì những cái rủi đó, nên ngay
sau khi nhập trại Songkhla ít hôm, anh đã bị Ban An ninh của Trại kêu lên
để trả lời những “tội” do một Trung tá người Phú Cam Huế,
dĩ nhiên không phải là Phật tử, tố cáo với Ban An ninh, gồm có:
--Tội đốt thư viện Mỹ;
--Tội đốt hai làng di dư Công giáo
Thanh Bồ và Đức Lợi ở Đà Nẳng;
--Tội tổ chức biểu tình và đưa bàn
thờ Phật xuống đường.
--Tội Tết Mậu Thân dẫn Việt Cộng
vào nhà thờ Phú Cam kêu đích danh 300 thanh niên đem đi chôn sống.
Tất cả những tội trên đây nhằm
vào ba mục đích chính:
--Lợi dụng sự thù ghét Cộng Sản của
đồng bào vượt biên đế hướng đến việc xuyên tạc công cuộc vận động của Phật giáo năm 1963 và, chính
vì Phật giáo đưa bàn thờ Phật xuống đường năm 1966 mà quân đội không
thể tiếp viện nên thất trận, làm chết oan uổng binh lính;
--Chụp mũ Hoàng Văn Giàu chống Thiên
Chúa Giáo, tạo dư luận xấu và kích động tâm lý trả thù của đồng bào
Thiên Chúa Giáo đối với Hoàng Văn Giàu;
--Vu cáo Hoàng Văn Giàu đốt thư viện
Mỹ, chống Mỹ để gây trở ngại cho việc định cư của anh.
Trước sau, Hoàng Văn Giàu đã trả lời
những vấn đề trên hai lần với văn phòng Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đặt
trách vấn đề tị nạn tại trại, ba lần với phái đoàn Hoa Kỳ và hai lần
với Ban An ninh của trại.
Ngoài ra, Hoàng Văn Giàu đòi đối chất
với người đứng ra tố cáo, những Ban An ninh không đồng ý. Nếu Hoàng Văn
Giàu có tiền và chịu cho tham nhũng thì vấn đề hy vọng đã êm xuôi, nhưng
Hoàng Văn Giàu đã không chịu làm như thế. Do đó, mọi người trong ghe của
anh đều đã được đi định cư, nhưng riêng anh thì muời mấy tháng rồi
vẫn còn nằm tại trại.
Trong khi ở trại, anh được Phái đoàn
Phật giáo Việt Nam tại Pháp cử làm Đại diện của phái đoàn tại trại
Sonkhla để lo việc cứu trợ. Mỗi ba tháng anh nhận được tiền từ Phái
đoàn Phật giáo Việt Nam ở Pháp gởi sang theo danh sách do anh đề nghị
trước để cứu giúp những đồng bào vượt biên mới nhập trại. Anh đã
đảm nhiệm công tác này từ tháng 6 năm 1980.
Tháng 3 năm 1981, Phái đoàn PGVN ở
Pháp lại gởi sang một số tiền để cứu trợ theo danh sách do anh đề
nghị. Nhưng khi số tiền đến thì một số người có tên trong danh sách
đã lên đường đi định cư, do đó, còn dư lại 13.401 baht (tiền Thái
Lan). Thay vì giao lại cho Phái đoàn PGVN ở Pháp tại Trại mà Hoàng Văn Giàu
là Đại điện để tiếp tục phát cho những đồng bào mới đến thì
ông Trại trưởng Trần Ngọc Hồ giữ lại và muốn được
chia 8.000 baht trong số tiền đó. Anh Giàu không chịu và Phái đoàn PGVN tại
Pháp gởi thư sang yêu cầu giao lại hết cho anh Giàu. Tham nhũng không
được sanh ra tức giận. Đó là nguyên do gần nhất để gây ra
câu chuyện. Ngày 6 tháng 5 năm 1981 Trần Ngọc Hồ rời trại lên đường
đi định cư, nổi tức giận được trao lại cho đàn em. Do đó, đêm 8
tháng 5 năm 1981, lợi dụng lúc chưa có trại trưởng mới và ông đại điện
Cao Ủy Liên Hiệp Quốc tại Trại là Koizumi đi nghỉ hè, đám đàn em này
trong đó có tên Trưởng ban An ninh đã cho đọc trong một buổi phát thanh
toàn trại nguyên văn một bài báo của một tạp chí xuất bản tại Hoa Kỳ
với nội dung tố cáo Hoàng Văn Giàu như đã nêu trong hồ sơ vu cáo của
Ban An ninh Trại, đồng thời xách động một số người cuồng tín hành
hung anh Hoàng Văn Giàu. Nhờ đồng bào che chở và các nhân viên của văn
phòng Cao Ủy tại Trại can thiệp kịp thời nên anh Hoàng Văn Giàu đã
tránh được tai họa trong gang tấc.
Hiện nay, Trại đã có Trại trưởng
mới là ông Hồ Sĩ Viêm đang cố giải quyết thỏa đáng vụ này.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra là
:
--Nguyên tắc nào, lý do nào, mà những
người xử lý thường vụ của Trại cho phép đọc công khai trong chương
trình phát thanh toàn Trại một bài báo có tính cách mạ lỵ, vu khống cá
nhân nhất là bài báo đó có tính cách gây hận thù tôn giáo?
--Tại sao một đơn tố cáo, vu khống
có tính cách tác hại nghiêm trọng đến sinh mạng chính trị và an ninh bản
thân của một người như thế lại không được Ban Đại Diện Trại trong
suốt hơn một năm qua, giải quyết thỏa đáng ? (chẳng hạn cho đối chất,
tìm nhân chứng để biết ai phải ai trái) nếu không có ai đối chất, không
có ai làm nhân chứng thì dựa vào đâu để quả quyết đơn tố cáo chỉ
là một loại thư nặc danh, vô giá trị.
3.
Sự thực về những lời tố cáo :
Trở lại những “tội” mà bài báo
nọ đã kết án Hoàng Văn Giàu và được đọc công khai trong một buổi
phát thanh của Trại Songkhla :
“Tội thứ nhất” (nguyên văn) :
“Tháng 5 năm 1963, Giàu cùng với những
tên sau đây phối hợp với chùa Từ Đàm bắt đầu nổi lên chống phá
chính quyền Ngô Đình Diệm. Những tên đó là:
--Lê Tuyên, Giáo sư Việt Văn Đại Học
Sư Phạm.
--Tôn Thất Hanh, Giáo sư Khoa Học Sư
Phạm.
--Lê Khắc Quyến, Khoa Trưởng Đại Học
Y Khoa.
--Nguyễn Văn Trường, Giáo sư Đại Học
Sư Phạm cùng những tên sinh viên: Hoàng PNT., Vĩnh Kha, Tống Nhạn, Nguyễn
Văn Châu v.v.. Ngày 20 tháng 8 năm 1963 sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm ra
lệnh phong tỏa chùa Từ Đàm thì Giàu cùng đồng bọn bị Cảnh sát Huế
bắt giam vì có đủ bằng chứng những tên này hoạt động cho Cộng Sản.
Sau ngày 1 tháng 11 năm 1963, khi chính
quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ thì Giàu và đồng bọn được thả
ra.”
Rõ ràng đây là nhưng suy nghĩ phát xuất
từ những mặc cảm nhức nhối, hận thù, thiếu sáng suốt.
a) Tại sao có thể ấu trỉ, mù quáng
đến độ nói rằng từ tháng 5-1963, Giàu và một số người cộng tác với
chùa Từ Đàm bắt đầu nổi lên chống phá chính quyền Ngô Đình Diệm ?.
--Nếu sự thực chỉ có Giàu và một
số người như đã liệt kê nổi lên chống phá chính quyền Ngô Đình Diệm
và mở đầu cho sự sụp đổ của chính quyền này thì Giàu tài ba quá và
ngược lại, Tổng thống Diệm dở quá. Dở như vậy thì sụp đổ là phải!
Nhưng sự thực không phải như vậy.
Giàu hay Lê Tuyên, hay Tôn Thất Hanh hay bất kỳ ai khác, cũng chỉ là những
hạt cát trong trận bão tố uất hờn của quần chúng Việt Nam bị áp bức
ngược đãi, kỳ thị trong suốt 9 năm (trừ những người được hưởng
đặc quyền đặc lợi của chế độ) đang chờ cơ hội để bùng nổ. Cơ
hội đó đã đến khi Phật Giáo phát khởi cuộc vận động “Tự do Tín
ngưỡng và Công bằng Xã hội” ngày 10 tháng 5 năm 1963. Và phải nhớ là
Phật giáo chứ không phải là Giàu hay Tuyên hay Quyến hay Chùa Từ Đàm.
Vì hàng ngàn ngôi chùa chứ không phải một ngôi chùa; hàng triệu người chớ không phải một người.
b) Tại sao gọi là nổi lên “chống phá”
chính quyền Ngô Đình Diệm ?
Hoặc là kẻ vu cáo không biết xử dụng
tiếng Việt, thay vì nói phản đối hoặc chống đối thì lại nói là “chống phá”;
hoặc là vì tâm trạng nuối tiếc thời đại vàng son của mình nên đâm
ra tức giận căm thù những kẻ nổi lên chống phá làm sụp đổ thời đại
đó. “Chống
phá” là một hành động của một đám giặc cỏ. Ở đây, vì
không thể ngoan ngoãn, câm nín, chịu đựng nên dân chúng đã nổi lên lật
đổ một chế độ bạo quyền. Đây là một hành động chính trực, nói
như ngày xưa là “thuận lòng trời, hợp lòng dân”. Tại
sao gọi là chống phá ?.
Một chế độ mà ngay cả Ông Trần Văn
Chương, thân phụ Bà Ngô Đình Nhu, lúc bấy giờ đang làm Đại sứ VNCH tại
Hoa Kỳ cũng lên tiếng chỉ trích; Một chế độ mà ngay cả Linh mục Cao Văn
Luận, vừa là bạn thân của TT. Diệm, vừa là người đã từng giúp đỡ,
xây dựng chế độ cũng phải nói “chế độ này đã đến thời mạt rồi,
tôi đã khuyến cáo Tổng Thống, nài xin Ông sửa đổi mà Ông không chịu” ( Bên Giòng
Lịch Sử, CVL.); Một chế độ mà ngay những Tướng, Tá hoặc là con
nuôi của TT. Diệm, hoặc là đồng chí, bạn thân của TT. Diệm, cũng đứng
lên làm đảo chánh; Một chế độ mà ngay cả Giáo sư Buttinger, một người
bạn chí thân, một người từng tích cực, giúp đỡ và xây dựng chế độ
từ khi TT. Diệm còn ở Mỹ, cũng phải nói đã “dẫm nát
nguyện vọng của toàn dân”. Đó là chỉ kể những người thân
thiết, những người đã từng đóng góp trong việc tạo dựng chế độ,
chưa kể đến các đảng phái tôn giáo và quần chúng Việt Nam vốn là nạn
nhân của một chính sách độc tài, độc đảng, độc tôn của chế độ
Diệm.
Phản đối một chế độ như thế mà
cũng bị ghi vào hồ sơ an ninh để tìm cách đày đọa một người vừa mới
vượt thoát được ngục tù Cộng Sản. Một hành động như thế có đẹp
không, có cao thượng không ?.
c) Đêm 20 tháng 8 nằm 1963, không
riêng gì chùa Từ Đàm bị phong tỏa. Không riêng gì ở Huế mà khắp nơi
trên toàn quốc; không riêng gì Hoàng Văn Giàu mà hàng mấy chục ngàn người
trong đó có Tăng Ni và Phật tử bị bắt giam. Vì ai cũng bị tố cáo là
có bằng chứng hoạt động cho Cộng Sản (?). ( Hồi đó, người ta còn
khôi hài rằng Tổng thống Kennedy cũng có bằng chứng hoạt động cho Cộng
Sản; về nhà thấy vợ cũng có vẻ hoạt động cho Cộng Sản; nhìn lên
bàn thờ cũng thấy Cộng Sản…tứ phương bát hướng chỗ nào cũng thấy
Cộng Sản; ngay cả các cận vệ trong phủ Tổng thống người nào cũng phải
mang một tấm biển trước ngực ghi rõ câu: “Tôi không phải là Cộng Sản”
để hai Ông Diệm và Nhu yên tâm.
“Tội
thứ hai”: Đốt hai làng Công giáo ở Thanh Bồ và Đức Lợi :
Biến cố này xảy ra năm 1964, và khởi
sự từ một cuộc biểu tình do Đảng Đại Việt Cách Mạng tổ chức để
phản đối Thủ tướng Nguyễn Khánh trong việc tranh chấp quyền lực giữa
lãnh tụ đảng này với Thủ tướng Nguyễn Khánh. Kẻ tổ chức cuộc biểu
tình này là Lê Đình Cai, đặc trách
Thanh niên, Sinh viên Học sinh của Đảng này tại miền Trung vì thiếu tổ
chức và lãnh đạo cho nên sự việc đã xảy ra như sau : Đám biểu tình
được hướng dẫn qua một khu dân cư, một bên kia là khu các bar, các
room-for-rent cho lính Mỹ thuê ở. Đám biểu tình bị các cô bán bar trêu ghẹo
diễu cợt. Một số người biểu tình phản đối, đấu khẩu, một số lấy
đá ném các cô. Các cô ấy hoảng hốt kêu cứu các ông bạn Mỹ. Những
người Mỹ này tưởng lầm bị biểu tình tấn công, lấy súng bắn. Dân
biểu tình hoảng hốt dạt về phía bên làng Công giáo. Vốn sẳn mặc cảm
bị đàn áp sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ, nhưng người dân nơi đây
tưởng là đám biểu tình tấn công, nên họ đã nổ súng vào đám biểu
tình khiến có người chết và người bị thương. Quân đội và Cảnh sát
phải đến can thiệp và đòi giải giới dân Thanh Bồ Đức Lợi. Họ không
chịu. Quân đội phải nổ súng thị uy và tiến vào.
Trong lúc đó, một số nhà bị cháy, một số do chính dân trong khu đốt để
vu cáo cho quân đội theo phe biểu tình đàn áp họ. Tướng Nguyễn Chánh
Thi là người biết rõ vụ này. Ngoài ra, một nạn nhân khác của vụ Thanh
Bồ Đức Lợi đã viết sách có nói đến vụ này, đó là nhà văn Lệ
Hằng và quyển “Bản Tango Cuối
Cùng”, sách đã được tái bản ở Hoa Kỳ. Tác giả là người Công
giáo và ở Thanh Bồ Đức Lợi. Phật tử Huế cũng như Hoàng Văn Giàu
không dính líu gì đến vụ này.
“Tội
thứ ba”: Đốt thư viện Hoa Kỳ tại Huế.
Vụ này Hoàng Văn Giàu không tham gia
mà cũng không đồng ý. Kẻ gây ra vụ này là một sinh viên Luật khoa tên Nguyễn Hữu Giao. Đây là một âm mưu nhằm
tạo ác cảm của những người Mỹ đối với Phật giáo Huế. Do đó, ngay
sau khi xảy ra vụ này Giàu và một số người khác đã yêu cầu Thượng Tọa
Trí Quang lên đài Phát thanh Huế để phản đối việc làm đó.
Người Hoa Kỳ cũng như những người
Việt Nam làm việc cho Hoa Kỳ biết rõ vụ này. Ông Phan Viết Phong
cựu nhân viên Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn, có thể làm chứng vụ này
cho Hoàng Văn Giàu. Địa chỉ của Ông : 8665 SW. Canyon Lane – Portland, OR.
97225.
“Tội
thứ tư” : Đưa bàn thờ Phật xuống đường ngăn chận tiếp viện:
Sự việc này xảy ra năm 1966 trong lúc
xảy ra Phong trào Vận động Dân chủ của Phật giáo, đòi thành lập Quốc
hội Lập Hiến. Tướng Nguyễn Chánh Thi bị Thiệu-Kỳ cắt chức. Quân đoàn
I theo Ông Thi nên chống lại Trung ương. Họ kiểm soát mọi cơ sở hành
chánh, quân sự tại Quân đoàn I, ngoại trừ phi trường Đà Nẳng, vì sợ
ảnh hưởng không tốt đến việc yểm trợ của Hoa Kỳ cho Miền Trung. Nhờ
vậy mà người Mỹ có thể giúp Tướng Nguyễn Ngọc Loan đưa quân, xe tăng
M48 ra Đà Nẳng để từ đó phát xuất dẹp phong trào vận động dân chủ.
Thấy hoàn cảnh có thể gây ra nội chiến nên Phật giáo tại Huế ra lệnh
tín đồ đưa bàn thờ Phật ra hai bên đường tạo không khí bất bạo động
để ngăn chận chém giết. Nhờ vậy mà Huế, Đà Nẳng lúc bấy giờ
tránh được đổ máu.
Nói rằng vì vụ này mà Sư Đòan I bị
thất trận là một điều vu khống. Bởi vì không có một cuộc tiếp viện
nào xảy ra lúc bấy giờ ở Huế và Đà Nẳng. Hơn nữa, từ 1967 cho đến
1975 có vụ bàn thờ Phật nào xuống đường nữa đâu mà cũng thất trận?.
Vả lại, đó là một quyết định của
Giáo hội Phật giáo, tại sao lại nói rằng Giàu phối hợp với Chùa Diệu
Đế ? Với luận điệu này thì bất kỳ một người Phật tử nào, nhất
là ở Huế cũng bị kết tội ?. Nếu
cần phải trả thù thì xin tìm những bằng cớ cho chính xác!.
“Tội
thứ năm”, Tết Mậu Thân năm 1968, khi VC tràn vào thành phố Huế, Giàu đã
dẫn VC vào nhà thờ Phú Cam kêu đích danh 300 thanh niên đem đi chôn sống…
Đây là một lối vu cáo ác độc, trắng
trợn. Bởi vì, như đã nói ở trên, Giàu đã vào Sài Gòn từ 1966 và đã
liên tục ở lại đây dạy học, viết báo, cũng bị bắt và ra tòa với
TT. Thiện Minh rồi nhập ngũ, phục vụ ở Cục An ninh Quân đội Sài Gòn
cho tới 1975. Nếu Giàu có dính líu với Cộng Sản, nhất là trong vụ Mậu
Thân thì chính quyền, quân đội, báo chí và quần chúng Huế đã không bỏ
quên Giàu, nhất là thời bấy giờ, chính quyền đã lập Tòa án để xử
tất cả những kẻ có liên hệ với Cộng sản trong vụ Mậu Thân ? Mặt
khác, chính trong vụ Mậu thân này, những người theo Cộng sản như NX.Đ.,
HN.T.P., HN.T.P. v.v… (*) đã dẫn bộ đội CS đi lùng
bắt Giàu và những cán bộ trung kiên của Phật giáo ở Huế để giết
(?). May là Giàu đã vào Sài gòn trước đó. Cũng đừng quên rằng, hầu hết nạn nhân Cộng sản trong vụ Mậu
Thân ở Huế là Phật tử thuần thành.
“Tội
thứ sáu”, mạo nhân danh nghĩa Đại diện Phật giáo nhận tiền từ nước
ngoài và hô hào cho chủ nghĩa Cộng sản hoạt động công khai.”
--Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại
Pháp do Thượng Tọa Nhất Hạnh làm Trưởng Phái đoàn, bằng văn thư chính
thức đề cử Anh Hoàng Văn Giàu làm Đại diện của Phái đoàn tại Trại
Songkhla, như thế gọi là mạo nhận ? Và Anh chỉ nhận tiền theo danh sách
do Anh đề nghị trước đó Phái đoàn Phật giáo VN tại Pháp gởi, chứ
không có ngoại quốc nào cả.
--Ai đã từng ở tại Trại Songkhla
hay bất kỳ trại tị nạn nào đều cũng thấy rõ lời tố cáo Giàu hô
hào cho chủ nghĩa Cộng sản hoạt động công khai tại Trại là một bịa
đặt và không khôn ngoan. Bởi vì không nơi nào bằng các trại tị nạn, sự
căm thù Cộng sản còn nguyên vẹn, ngất trời cho nên không có một kẻ
nào khùng điên đến độ hô hào cho chủ nghĩa CS hoạt động công khai đó.
KẾT
LUẬN :
1-- Tất cả những điều tố cáo
trên, một mặt có tính chất ác độc, nham hiểm, nhưng mặt khác lại có
tính cách ấu trỉ, khôi hài. Ác độc nham hiểm vì nó thể hiện cái ác
tâm muốn triệt hạ Hoàng Văn Giàu bằng cách xúi giục, kích động sự
căm thù của đồng bào Công giáo, vì theo lời tố cáo thì Giàu đã “chống
phá” Tổng thống Diệm, đã đốt hai
làng Công giáo Thanh Bồ-Đức Lợi và đã dẫn Việt Cộng đi giết 300
thanh niên Công giáo. Đó là chưa kể, kẻ vu cáo còn nhằm mục đích gây sự
thù ghét của người Mỹ đối với Hoàng Văn Giàu đã đốt thư viện của
họ, đã chống lại họ. Dĩ nhiên điều này nhằm mục đích cản trở việc
định cư của Hoàng Văn Giàu;
Tuy nhiên, nó có tính cách ấu trỉ
và khôi hài vì tất cả chỉ là chuyện bịa đặt, gán ghép một cách khờ
khạo, thiếu lý trí.
2-- Nhưng dù ác độc nham hiểm hay ấu
trỉ khôi hài, điều mà ai cũng thấy rõ là tất cả mọi sự tố cáo đều
phát xuất từ động cơ muốn trả thù. Vì muốn trả thù, nên người ta rất
ác độc, nham hiểm; và cũng vì muốn đạt được mục đích trả thù nên
người ta không cần sự thật, không sợ lố bịch do đó những lập luận,
những viện dẫn đều có tính cách không tưởng, ấu trỉ.
3-- Nhưng trả thù thì trả thù cái
gì ? Hơn ai hết, chắc chắn những kẻ vu cáo biết rõ những lời vu cáo của
họ là bịa đặt, nghĩa là họ biết rõ Hoàng Văn Giàu không dính líu gì
đến vụ Mậu Thân, vụ Thanh Bồ-Đức Lợi cũng như không những không
liên hệ gì với Cộng sản mà còn bị Cộng sản hảm hại nữa. Vậy thì
không lý họ trả thù vì Hoàng Văn Giàu đã tham gia vào phong trào chống đối
Tổng thống Diệm ? Đành rằng Tổng thống Diệm có nói rằng : “Tôi tiến,
hãy theo tôi; tôi lùi hãy bắn tôi; tôi bị giết hãy trả thù cho tôi.” Trả thù như thế là vô lý. 9 năm trời
như thế đã quá đủ rồi! Không lý còn muốn tiếp tục được ưu đãi với
những đặc quyền đặc lợi trong khi đại bộ phận dân chúng tiếp tục
bị khống chế, đàn áp, tù đày ?. Không lý muốn người khác mãi mãi cất
đầu lên không nỗi cho mình được lớn mạnh ?.
4-- Nếu lý luận rằng vì việc chống đối và lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm
đã đưa đến thảm họa mất nước ngày hôm nay thì đó là loại lý luận
mù quáng, nông nổi. Chẳng khác nào Cộng sản Việt Nam hiện nay đổ lỗi
cho dân chúng lười biếng ? Chẳng khác nào Thiệu trước đây trách dân
chúng biểu tình nên gây ra xáo trộn mà không tự hỏi vì sao dân chúng biểu
tình, vì sao Linh mục Trần Hữu Thanh phải phát động phong trào chống tham
nhũng ? Chẳng khác nào những người nuối tiếc chế độ Diệm trách cứ
việc lật đổ Tổng thống Diệm mà không tự hỏi tại sao ngay đến những
người thân thiết nhất, trung thành nhất cuối cùng cũng đứng lên lật
đổ Tổng thống Diệm ? Đó là loại chỉ biết trách nước tràn ra khỏi
ly mà không chịu trách người làm tràn ly nước.
Trong một quốc gia, ai là người có
trách nhiệm quy tụ nhân tâm ? Không ai
khác hơn là vị nguyên thủ quốc gia, nghĩa là Tổng thống Diệm. Vậy thì
trong một quốc gia, ai là người chịu trách nhiệm khi chính nghĩa bị lu mờ,
khi nhân tâm bị ly tán, khi tiềm lực dân tộc bị băng hoại ? Cũng không không ai khác hơn là vị nguyên
thủ quốc gia, nghĩa là cũng Tổng thống Diệm.
Đặt trường hợp Tổng thống Diệm
không bị lật đổ và Tổng thống Diệm thành công trong việc móc nối thỏa
hiệp với chính quyền Hà Nội lúc bấy giờ (sự việc đã xảy ra qua trung gian của Đại sứ
Ấn Độ trong Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến) thì với kinh
nghiệm thỏa hiệp với Cộng sản mà chúng ta đã có ở Việt Nam cũng như
ở Lào, thử hỏi đất nước và dân tộc chúng ta đi về đâu ? Liệu có
thể kéo dài đến 1975 hay không ? Đó là chưa kể ai cho phép hai Ông Diệm
và Nhu làm cái công việc móc nối để thỏa hiệp với Cộng sản ? Căn cứ vào chính Hiến Pháp của chế độ
Diệm lúc bấy giờ, tội đó là tội gì ?.
Riêng nói về tương quan lực lượng
để đương đầu với Cộng sản thì gia đình ông Diệm được bao nhiêu
người, đảng phái của ông Diệm được bao nhiêu người, chưa nói đến
việc hầu hết các đảng phái quốc gia và các tôn giáo khác đều bị triệt
hạ và đẩy vào thế thù nghịch, chỉ nói đến những người thân thiết
và trung thành với ông Diệm, cuối cùng cũng xoay lưng lại Ông, thử hỏi
với lực lượng như thế, Ông Diệm lúc bấy giờ thì việc quyết định
móc nối thỏa hiệp với Cộng sản, như Ông đã làm, lại là một quyết
định “sáng suốt” ! Nhưng dĩ nhiên chỉ “sáng suốt” đối với cá
nhân Ông mà thôi còn đối với đất nước và đồng bào thì đó là một
quyết định đắc tội với lịch sử.
5--Không kể những năm tháng trước
1975 ở trong nước, chỉ kể khoảng thời gian 6 năm ở hải ngoại (**), Giáo hội Phật giáo và cá nhân một số Phật tử
đã là đối tượng của những vụ khiêu khích, phá hoại, trả thù mà suy
cho cùng chỉ vì đã liên hệ đến việc Tổng thống Diệm bị lật đổ.
Riêng Hoàng Văn Giàu, trong nước thì
bị Cộng sản bắt giam, bắt giam ngay sau khi họ vào Sài Gòn, vì tội chống
Cộng; Khi thoát được ngục tù, vượt biên tìm tự do thì con đường tự
do bị ngẽn lối vì “tội thân Cộng”. Không những thế, tại trại tị
nạn, Hoàng Văn Giàu bị hành hung vì bị tố cáo như một tội phạm ác độc
của người Công giáo, ở hải ngoại thì bị một tờ báo thổi phồng
lên như một tình báo nguy hiểm của Cộng sản sắp được tung vào Hoa Kỳ.
Họ kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ đừng cho vào, họ kêu gọi đồng bào phải
cảnh giác, ngăn chận. Tình thế Hoàng Văn Giàu hiện nay đúng là “trời đất mênh môn mà ta không có một chỗ
dung thân!” Tình thế như thế này
thà Hoàng Văn Giàu nhận được một phát đạn ngay tim có lẽ còn êm ái hơn
nhiều !.
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng!
Phụ
chú của web Gđ:
(*) Vì sự
dè dặt cần thiết về nguồn thông tin sự kiện lịch sử chưa được kiểm
chứng, web Gđ xin viết tắt tên người.
(**) 6 năm là
tính đến năm 1981, hơn hai thập niên sau nữa, âm mưu của họ (Công giáo)
vẫn còn tiếp diễn.
No comments:
Post a Comment