Mt68: NHẬN ĐƯỢC VÀI HỎI THĂM MUỐN BIẾT "PHIẾN ĐAN LÀ AI?" - VÀ ĐÂY LÀ PHIẾN ĐAN PHỎNG VẤN NGUYỄN HỒNG ANH- CHỦ BÁO TIVI TUẦN SAN TẠI MELBOURNE ÚC CHÂU./-TC Lãnh
Mt68 History
Sunday, 31 July 2022
NGAY SAU KHI GS NGUYỄN XUÂN VINH VỪA QUA ĐỜI- THÔNG TIN THẤP THOÁNG CÓ BÓNG DÁNG PHIÊN ĐAN TRƯỚC QUAN TÀI
THÊM CHI TIẾT VỄ ĐẠI TÁ/ GIÁO SƯ NGUYỄN XUÂN VINH VỪ TẠ THẾ./-TC Lãnh
Tiểu sử và binh nghiệp
Ông sinh ngày 3 tháng 1 năm 1930 trong một gia đình khá giả tại Yên Bái, miền Bắc Việt Nam, là con trai trưởng. Cha ông là Nguyễn Xuân Nhiên. Mẹ ông là người Nam Định.[4]. Ông có nhiều em trai và em gái, tiểu biểu là tiến sĩ toán học Nguyễn Xuân Huy, kĩ sư Nguyễn Xuân Chúc (công tác và làm việc cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), nhà thơ Nguyễn Thị Hoài Thanh... Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học Phổ thông 2 cấp chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài toàn phần (Part II).
Từ khi còn nhỏ ông đã là một người có năng khiếu toán. Ông tham gia viết sách từ rất sớm. Khi còn đang là học sinh, ông đã có sách được xuất bản với cuốn sách giáo khoa Bài tập hình học không gian. Cuốn sách đã trở thành tài liệu tham khảo và học vấn quan trọng thời bấy giờ.
Tháng 9 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, được theo học tại trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định, khai giảng ngày 1 tháng 10 cùng năm. Ngày 1 tháng 6 năm 1952, tốt nghiệp với cấp bậc Chuẩn úy và được phân bổ vào ngành Công binh. Cuối năm, ông xin chuyển sang ngành Không quân và được đi du học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air). Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp với bằng phi công 2 động cơ và bay phi cụ, đồng thời ông được thăng lên cấp Thiếu úy. Sau đó ông lưu trú và phục vụ chuyên ngành tại Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông ghi danh học Đại học và thi đậu bằng Cử nhân toán ở Đại học Aix-Marseille.
Đầu năm 1955, khi Quân đội Pháp chính thức bàn giao cơ sở và trang thiết bị của ngành Không quân lại cho Quân đội Quốc gia, ông được lệnh trở về Việt Nam và được thăng cấp Trung úy, phục vụ trong Bộ tư lệnh Không quân. Cuối năm 1955, ông được thăng cấp Đại úy làm Trưởng phòng Nhân viên trong Bộ Tư lệnh Không quân, Tháng 10 năm 1956, sau khi Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống của nền Đệ nhất Cộng hòa, ông được thăng cấp Thiếu tá làm Tham mưu phó tại Bộ tư lệnh Không quân. Ngày Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung tá và được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không quân do Đại tá Trần văn Hổ[5] làm Tư lệnh. Tháng 2 năm 1958 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Không quân, ngay sau đó được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, hai sĩ quan phi công là Phạm Phú Quốc[6] và Nguyễn Văn Cử[7] điều khiển 2 chiếc Khu trục cơ thả bom Dinh Độc lập, ông bị liên đới trách nhiệm nên Tổng thống Diệm đã cách chức Tư lệnh Không quân của ông. Cùng năm này, ông xin giải ngũ và đi du học ở Hoa Kỳ.[2] Ngay sau đó, Trung tá Huỳnh Hữu Hiền[8] thay thế ông làm Tư lệnh Không quân.
Nghiên cứu khoa học
Năm 1962, ông đến Hoa Kỳ để bắt đầu sự nghiệp Khoa học của mình khi mới 32 tuổi. Năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ về Khoa học Không gian tại Đại học Colorado.[3] Ba năm sau, ông được làm giảng sư (Associate Professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, ông được phong hàm giáo sư (Professor) tại Viện Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng Tiến sĩ Quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.[2]
Năm 1982, ông là giáo sư (Chair Professor) của ngành Toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University) ở Đài Loan.[9] Hai năm sau, năm 1984, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Châu Á đầu tiên được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace). Đến năm 1986, ông trở thành Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).[10]
Trong nhiều năm ông đã được mời tham gia thuyết trình thỉnh giảng tại nhiều Đại học lớn và các Hội nghị Quốc tế nhiều nơi trên Thế giới bao gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển, Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.[10]
Năm 1999, ông nghỉ hưu, ông đã được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư Danh dự ngành Kỹ thuật Không gian (Professor Emeritus of Aerospace Engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục.[2]
Gia đình
- Thân phụ: Cụ Nguyễn Xuân Nhiên (1904-1950)[11]
- Thân mẫu: Cụ Đỗ Thị Thảo (1909-2002) [12] (sinh hạ 11 người con, giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là con thứ 2 và là trưởng nam)
- Bào tỷ: Nguyễn Thị Bính (đã mất)
- Bào đệ: Nguyễn Xuân Chúc (sinh 1932), Nguyễn Xuân Đăng (đã mất), Nguyễn Xuân Quang (đã mất), Nguyễn Xuân Huy (sinh 1944)
- Bào muội: Nguyễn Thị Bạch Yến, Nguyễn Thị Hoài Thanh (1936-2020), Nguyễn Thị Kim Oanh, Nguyễn Thị Thanh Nga, Nguyễn Thị Minh Nguyệt (đã mất).
- -Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh có vợ và 4 người con, hiện định cư ở Hoa Kỳ.
Ngoài ra thân phụ ông có người vợ kế là Đỗ Thị Huyền (1920-1998), chính là em ruột của Đỗ Thị Hảo, có với nhau 4 người con: Nguyễn Thị Băng Tâm, Nguyễn Thị Vân Khanh, Nguyễn Thị Sinh và Nguyễn Chí Bảo.
Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]
Cha của ông là Nguyễn Xuân Nhiên, liệt sĩ hy sinh năm 1950 thời Chiến tranh Đông Dương [12].
Em trai là Nguyễn Xuân Chúc [13], sinh ngày 30 tháng 9 năm 1932 tại Hải Phòng. Ông Chúc là kỹ sư cầu đường, tốt nghiệp Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội. Trái ngược với anh trai Nguyễn Xuân Vinh, ông Nguyễn Xuân Chúc tham gia Việt Minh và công tác trong chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra người em trai khác là Nguyễn Xuân Huy, sinh năm 1944, hiện đang công tác tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam [12]. Người em gái Nguyễn Thị Hoài Thanh là nhà thơ nổi tiếng, sinh năm 1936, đã mất năm 2020 tại Hải Phòng [14].
Ngày 19 tháng 10 năm 2016, ông đã được Đức cha Đa Minh Mai Thanh Lương, Giám mục Công giáo người Việt đầu tiên tại Hoa Kỳ, làm phép Thanh Tẩy gia nhập Đạo Công giáo tại Nhà thờ Saint Bonaventure Church ở Huntington Beach, California. Ông lấy Tên Thánh là Anphongsô. Ông cũng được lãnh nhận bí tích Thêm Sức do Giám mục Mai Thanh Lương ban trong Thánh lễ với sự hiện diện của gia đình thân quyến và các bạn hữu lâu năm của ông.[15]./-
Saturday, 30 July 2022
Một con người vĩ đại như vậy, với cá nhân và ngòi bút quá nhỏ bé của mình, tôi thực sự không thể (và cũng không dám) viết điều gì về ông, ngay cả với danh nghĩa là một đứa học trò nhỏ nhất. Bởi vì trên thực tế, tôi chưa và không bao giờ xứng đáng để được làm học trò của ông, mặc dù ông đã từng dạy ở ngôi trường trung học mà tôi có thời theo học, (nhưng khi tôi chuyển vào học từ lớp đệ Tam thì ông đã rời khỏi nơi này cả mấy năm trước đó). Điều duy nhất mà tôi có thể viết, đó là niềm hãnh diện, sự cảm kích và lòng biết ơn về tình quí mến mà ông đã đặc biệt dành cho. Mặc dù ông khiêm nhường bảo đó là tình đồng ngũ và thầy trò.
Lần đầu tiên, cách nay hơn 15 năm, một hôm tôi rất bất ngờ và ngạc nhiên khi nhận được điện thư của ông gởi thăm, nói vài cảm nghĩ sau khi đọc một vài câu chuyện của tôi viết về đời quân ngũ, những năm tháng tù đày và đặc biệt là những kỷ niệm về Nha Trang, cùng ngôi trường Võ Tánh mà tôi từng theo học trước kia. Ông cho biết những bài viết ấy đã gây cho ông nhiều cảm xúc, về một cuộc chiến mà ông không có mặt để cùng gánh vác sẻ chia trong những thời điểm tàn khốc và bất hạnh nhất, và một thành phố biển đẹp đẽ thơ mộng đã làm cho ông cảm thấy được an ủi, thú vị trong hơn một năm ông bị “đi đày”, khi còn mang cấp bậc trung úy, và cũng ở đó ông rất vui với công việc dạy Toán cho học sinh lớp Đệ Nhị của một trường trung học, đã để lại trong ông nhiều kỷ niệm đáng nhớ.
Tôi xin phép được gọi ông bằng Thầy kể từ khi ấy.
Sau khi di chuyển từ San Jose (Bắc Cali) xuống Huntington Beach (Nam Cali), nhân dịp sinh nhật thứ 80 của Thầy, chị Phiến Đan, phu nhân của Thầy gọi tôi đến chung vui, chúc mừng và hàn huyên cùng Thầy. Tôi thật sự cảm kích về sự gần gũi, lòng yêu thương, quí mến mà Thầy đã dành cho. Từ đó tôi thường lui tới viếng thăm và chuyện vãn với Thầy.
Có lần, chị Phiến Đan cho biết là nhà thường bị ăn trôm, và xảy ra vài điều không may khác. Chị tin vào Phong Thủy nên hỏi tôi có biết người nào giỏi về môn này không. Tôi nghĩ ngay đến nhà phong thủy nổi tiếng Quảng Đức Nguyễn Văn B., người bạn cùng lớp đa tài thời trung học ở Nha Trang, nhưng tôi ái ngại khi nghĩ Thầy là một nhà khoa học, nên bảo chị Phiến Đan dò hỏi ý kiến của Thầy. Không hiểu tin về Phong Thủy, chiều vợ, hay vì thương một thằng học trò Võ Tánh Nha Trang, mà Thầy theo lời chỉ dẫn của anh bạn tôi, tự tay phụ vợ sơn lại màu khác trên mấy bức tường nhà. Tôi hỏi, Thầy chỉ cười. Thấy Thầy cười là tôi vui rồi!
Một lần, đọc ở đâu đó thấy Thầy có ít phiền toái khi sinh hoạt trong Tập Thể Cựu Chiến Sĩ, tôi tha thiết khuyên Thầy nên nghỉ ngơi vì tuổi đã già và cống hiến đã nhiều. Tôi cũng đề nghị chị Phiến Đan tìm cách nói thêm với Thầy, nhưng Thầy trầm ngâm rồi bảo:
– Tướng Lê Minh Đảo rủ tôi cùng vận động anh em, bây giờ Tướng Đảo đã rút ra, trong lúc đang khó khăn tôi bỏ anh em lại sao đành!
Ngày 20.3.2022, trong một buổi lễ rất trang trọng do Hội Giáo Chức VNCH, Hội Bưởi & Chu Văn An, và Câu Lạc Bộ Hùng Sử Việt tại Nam Cali phối họp tổ chức để vinh danh Giáo Sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, tôi có dịp được nghe các vị giáo sư, một số cựu sĩ quan cao cấp Không quân, cùng một số bạn hữu của Thầy đã nói về những thành tích, về những vinh dự lớn lao mà ông đã nhận được tại Hoa Kỳ, và một số quốc gia khác, đặc biệt trên một bảng tuyên dương tại Viện Khoa Học Không Gian Liên Xô, tên của Thầy được đặt lên hàng đầu, trên cùng, trước những khoa học gia Không Gian Thế Giới khác…, đã làm tôi thêm hãnh diện khi nghĩ là đã từng có một người Việt nam như thế!
Vài hôm sau đó, tối ngày 24.3.2022, qua Giáo sư Trần Huy Bích, tôi nhận được lời mời của Thầy và chị Phiến Đan đến nhà dùng cơm tối. Tôi rất bất ngờ và cảm động khi thấy Thầy đã già yếu, sức khỏe không được tốt mấy mà vẫn còn nghĩ đến mình. Thầy đã dọn về ngôi nhà mới một tầng ở thành phố Costa Mesa từ mấy năm nay, vì ngôi nhà cũ, phòng ngủ nằm trên lầu nên không mấy thuận tiện cho Thầy. Ngôi nhà mới khá đẹp, rộng rãi nằm trong một khu yên tĩnh, với bàn tay khéo léo của chị Phiến Đan, nên các phòng ốc được trang trí rất trang nhã hài hòa, khu vườn trồng nhiều loại hoa thơ mộng, hợp với sở thích của Thầy. Khách của buổi cơm gia đình hôm ấy, ngoài Giáo sư Bích và tôi, còn có vợ chồng Bác sĩ Nguyễn Ngọc Kỳ, học trò cũ Chu Văn An cũng là bác sĩ riêng của Thầy, cùng vợ chồng Nhạc sĩ Lê Văn Khoa. Hôm ấy Thầy rất vui. Chúng tôi nói chuyện thoải mái, về đủ mọi vấn đề. Thầy còn bảo chúng tôi cứ hỏi bất cứ điều gì muốn hỏi, Thầy sẽ trả lời. Chị Phiến Đan trở thành “ký giả”, ngồi ghi chép lại các câu hỏi của chúng tôi để nhắc cho Thầy. Biết bao nhiêu câu hỏi cho đủ về cuộc đời quá thành đạt và phong phú của Thầy. Có người hỏi về gia đình, thời tuổi thơ, đời phi công. Có người hỏi lúc làm Tư Lệnh Không Quân xảy ra vụ hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử dội bom Dinh Độc Lập đúng lúc Thầy đang công tác ở Đài Loan, có bị TT Diệm khiển trách hay không. Thầy cũng giải thích trường hợp Thầy xin giải ngũ để sang Mỹ du học và được TT Diệm đồng tình, khuyến khích. Có người hỏi trong ba thiên chức: nhà văn, nhà giáo và nhà khoa học, vai trò nào để lại cho Thầy nhiều kỷ niệm đáng nhớ, hoặc Thầy ưa thích nhất. Thầy cười, bảo ở mỗi lãnh vực đều có những thích thú riêng, nên Thầy thích làm toán cộng thay vì trừ hay phải chia ra.
Bỗng tôi khựng lại khi có một vị nêu câu hỏi:
– Thầy đã trải qua nhiều công việc và sống ở nhiều nơi, vậy thời gian và nơi nào Thầy cảm thấy thích thú và đáng ghi nhớ nhất?
Thầy trả lời không do dự:
– Thời tôi ở Nha Trang và dạy ở trường Trung học Võ Tánh!
Vốn là một người Nha Trang và cũng là một cựu học sinh Võ Tánh, câu trả lời khá bất ngờ của Thầy dường như đã chạm vào trái tim tôi. Tôi lễ phép hỏi Thầy:
– Có phải lúc ấy Thầy còn trẻ, đang yêu đời và gặp nhân vật Phượng để viết nên tác phẩm Đời Phi Công sau đó?
Thầy cười, bảo:
– Mới từ Pháp về nước, trong khi Không Quân đang rất cần những phi công, thì tôi lại bị “đẩy” ra Nha Trang làm huấn luyện viên bay kèm cho mấy anh sĩ quan mới tập bay. Có lẽ ông Tư Lệnh lúc ấy nghĩ tôi là người do Tướng Nguyễn Văn Hinh giới thiệu đi học phi công, nên có ác cảm. Không ngờ ra Nha trang, thấy biển trời mênh mông, thơ mộng và con người hiền hòa nên tôi lại thích thú. Nhưng rồi cũng chỉ được hơn một năm, khi TT Ngô Đình Diệm chấp chánh thì tôi nhận lệnh về lại Bộ Tư Lệnh Không Quân.
Sau đó, trong lúc chỉ còn có hai thầy trò, Thầy đã tâm tình thêm:
– Chỉ dạy Toán hơn một năm ở mấy lớp Đệ Nhị Trường Võ Tánh, nhưng tôi rất quí mến các thầy cô giáo và đặc biệt các em học sinh. Tất cả đều lễ độ, hiền hòa và hiếu học. Tôi đoán trong số họ sẽ có nhiều người thành công trong nhiều lãnh vực và đóng góp cho sự phát triễn của đất nước, kể cả cho nền văn học. Điều đó bây giờ đã là sự thật. Sau này tôi đã có dịp quen biết hay gặp lại một số học sinh Võ Tánh thành đạt trong nhiều lãnh vực như thế, tôi mừng lắm, chỉ tiếc là VNCH của chúng ta không còn tồn tại nữa!
Và đó cũng là lần cuối cùng tôi được gặp và hàn huyên với Thầy.
Viết những dòng này để tưởng nhớ và thay cho lời vĩnh biệt Thầy, khi Tang Lễ của Thầy vào ngày 28 và 29.7.2022 tại Nam Cali, tôi không thể có mặt để cùng các huynh đệ Võ Tánh tiễn biệt Thầy về miền miên viễn.
Xin cúi đầu bái biệt Thầy!
Bắc Âu, 25.7.2022
Phạm Tín An Ninh
_________________
***Mt68: Ít phút sau, chúng tôi nhận được câu hỏi: " Có phải vợ của Ông Nguyễn Xuân Vinh tên là Phiến Đan không? Gốc gác từ trong nước phải không? Hay là cựu học trò Võ Tánh, Nha Trang?"Florida.
_ Xin thưa, hình như Phiến Đan còn trẻ, trước kia sống ở Sydney, Úc Châu, làm việc cho đài Tiếng Việt "Quê Mẹ" . Theo vài chi tiết trong bài của tác giả NV Sanh và bài PTA Ninh nầy thì Phiến Đan là cựu học sinh Võ Tánh(?) - Thiết nghĩ không nên chi tiết hơn vào thời điểm hiện tại - Sau nầy nếu có thắc mắc thêm dĩ nhiên nhị vị tác giả sẽ là người biết rõ ngọn nguồn hơn ai hết- Thân kính-Mt68.
Friday, 29 July 2022
TẠI SAO VẪN CÓ NGƯỜI CÒN NGÂY THƠ LIẾM VÁI VIỆT CỘNG DÃ MAN MỌI RỢ?./-TC Lãnh
Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, những vụ tấn công vào các căn cứ, sân bay, kho tàng ở vùng đô thị Miền Nam chủ yếu được thực hiện bởi các lực lượng đặc công và du kích của Quân giải phóng Miền Nam ở các căn cứ vùng ngoại ô, phối hợp với các đơn vị biệt động thành hoạt động bí mật trong thành phố, hoặc các tổ chức ngoại vi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGP) nhằm gây tiếng vang về quân sự và chính trị, nhằm vào các mục tiêu quân sự như trại lính, kho tàng, tàu chở trang thiết bị quân sự; mục tiêu hậu cần như kho tàng, tàu tiếp tế, và mục tiêu dân sự là nơi tập trung đông sĩ quan và binh lính Mỹ như nhà hát, cư xá cho sỹ quan Mỹ, cầu cống, đường xe lửa, sân vận động... một số vụ tấn công còn mở rộng sang các căn cứ Mỹ ở Lào, Campuchia và Thái Lan.
Chiến thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Cách thức tấn công đa dạng gồm có đặt mìn, thuốc nổ, đặt bom xe, pháo kích, cối kích, bắn hỏa tiễn, phục kích và kể cả tiến công bằng bộ binh. Đánh bom cảm tử rất hiếm khi xảy ra và nếu có cũng là ngoài kế hoạch ban đầu của người đặt bom. Một số cuộc tấn công như là cuộc tấn công vào Đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1968 cũng có thể coi là 1 cuộc tấn công cảm tử, vì những chiến sỹ tham gia cuộc tấn công đã tự xác định bản thân có rất ít cơ hội sống sót trước đối phương đông hơn nhiều lần.
Chiến thuật tấn công và phương pháp thực hiện được kế thừa từ chiến thuật của lực lượng biệt động thành trong cuộc chiến tranh trước đó với người Pháp (như vụ đánh bom rạp hát Majestic)[cần dẫn nguồn]. Đường ray xe lửa thường xuyên bị Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt chất nổ và hàng trăm vụ nổ làm lật các toa xe lửa khiến cho hệ thống đường xe lửa từ Bắc vào Nam do Pháp xây dựng chỉ sử dụng được từ Sài Gòn đến Long Khánh [1]. Có 3 cách đánh tiêu biểu của biệt động Sài Gòn là nổ chậm, cường tập và pháo kích [2]. Đến 1965, lực lượng biệt động tập trung của quân khu Sài Gòn - Gia Định được thành lập gọi là F100, gồm 13 đội [2].
Biệt động Sài Gòn và đặc công là 2 lực lượng khác nhau:
- Đặc công là binh chủng chính quy, được trang bị vũ khí, được huấn luyện các kĩ năng cần thiết, ví dụ như cận chiến bằng vũ khí, sử dụng mìn và thuốc nổ, tiềm nhập, bơi đường dài (đối với đặc công thủy)... Biệt động tương tự như du kích, hay LLVT địa phương, không nhất thiết là lính chính quy, không nhất thiết được trang bị vũ khí và huấn luyện để chiến đấu, có thể là ông già, trẻ con, nữ sinh... với nhiều nhiệm vụ khác nhau (tác chiến, liên lạc, điều tra địch tình, vận chuyển và cất giấu vũ khí...).
- Xây dựng mạng lưới biệt động phức tạp hơn đặc công rất nhiều. Vì biệt động hoạt động trong lòng địch, mọi thành viên đều phải có vỏ bọc, giấy tờ hợp pháp để sống công khai. Đặc công có thể mất vài tháng để huấn luyện 1 tiểu đoàn, vài tuần để tổ chức 1 trận đánh nhưng với biệt động sẽ là hàng năm để xây dựng lực lượng.
- Đặc công có thể tác chiến độc lập nhưng biệt động bắt buộc phải dựa vào dân, nếu không có dân trợ giúp thì mạng lưới không thể tồn tại được.
- Về tác chiến thì đặc công thường tác chiến vào ban đêm, nhằm đạt được mục đích tốt nhất; ngược lại, biệt động luôn tác chiến vào ban ngày (để gây tiếng vang). 1 trận đánh cường tập của đặc công tùy tình hình có thể kéo dài, nhưng 1 trận đánh cường tập của biệt động không bao giờ được kéo dài quá 5 phút.
Trong chiến tranh, truyền thông nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nói chung đều nêu những cuộc tấn công trên là rất cần thiết để góp phần vào sự nghiệp chống xâm lăng và thống nhất đất nước. Đến nay, một số vụ tấn công vẫn được nhà nước CHXHCN Việt Nam ca ngợi như những huyền thoại của cuộc chiến[2].
Thập niên 1960[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1960[sửa | sửa mã nguồn]
- Tháng 12, Câu lạc bộ Gôn Sài Gòn bị đánh bom, MTDTGP tuyên bố tiêu diệt hàng loạt cố vấn Mỹ và chư hầu[3]
Năm 1962[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 20/5, bom nổ tại khách sạn Hưng Đạo làm bị thương 8 người Việt và 3 người Mỹ.[4]
- Ngày 26/10, dưới sự chỉ huy của Lê Thanh Tùng, nữ biệt động Lê Thị Thu Nguyệt cùng các đồng chí Cưỡng, Tùng, Quang trực thuộc Đội Biệt động 159 dùng lựu đạn làm nổ tung khu vực triển lãm quân sự tại Công trường Lam Sơn tại Sài Gòn, phá hủy chiếc trực thăng UH1A đang được trưng bày và làm chết một số cảnh sát và 1 sĩ quan Việt Nam Cộng hòa.[5].
Năm 1963[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 25/3, cơ sở nội tuyến của Đội biệt động 159 (do Mười Luân, bí số 8E, và Lê Thị Thu Nguyệt, đóng vai người yêu của Mười Luân) đã gắn 1 quả mìn hẹn giờ vào chiếc máy bay Boeing 707 của quân đội Mỹ chở 80 cố vấn Mỹ từ Sài Gòn bay đến Mỹ. Chiếc máy bay vừa đáp xuống phi trường Honolulu thì mìn phát nổ nhưng không làm ai bị thương vong vì tất cả hành khách đã di chuyển vào nhà ga sân bay. Nguyên nhân mìn phát nổ chậm là do áp suất trên cao làm đồng hồ hẹn giờ của quả mìn thay đổi [5].
- Ngày 2/5, Nguyễn Văn Trỗi đặt bom trên cầu Công Lý, dự định ám sát Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ McNamara cùng đoàn tùy tùng nhưng không thành. Nguyễn Văn Trỗi bị xử tử vào năm 1964.
Năm 1964[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 9/2, khán đài 1 sân vận động bị gài bom khi lính Mỹ đang ngồi xem 1 trận đá banh, khiến 2 sĩ quan Mỹ thiệt mạng và 41 người khác bị thương[4].
- Ngày 16/2, rạp hát Kinh Đô bị đánh bom khi đang chiếu phim cho lính Mỹ, làm 3 người Mỹ chết và hơn 32 người bị thương. Phía MTDTGP nói có hơn 150 lính Mỹ thiệt mạng trong vụ này.[4][6]
- Ngày 2/5, tàu sân bay hộ tống USS Card (choán nước đầy tải 16.500 tấn) neo đậu ở cảng Sài Gòn bị chiến sỹ biệt động Lâm Sơn Náo đặt thuốc nổ đánh chìm, nhiều máy bay trực thăng cùng khí tài quân sự bị chìm theo con tàu. Phía Mỹ nói có 5 thủy thủ trên tàu thiệt mạng [4]. MTDTGPMN tuyên bố 55 lính Mỹ chết và bị thương[6] Tạp chí History and Headlines bình luận đây là "một trong những kỳ công cá nhân tuyệt vời trong Lịch sử chiến tranh Hải quân"[7].
- Ngày 18/6, MTDTGP tấn công 1 đoàn hộ vệ quân đội gần Bến Cát, Bắc Sài Gòn[8].
- Ngày 25/8, khách sạn Caravelle bị đặt bom làm sập nhiều tầng. Phía MTDTGP nói có hơn 100 lính và sĩ quan Mỹ bị chết và bị thương [6]
- Ngày 31/10, sân bay Biên Hòa bị pháo kích, 5 chiếc B-57 Canberra bị phá hủy, 15 chiếc B-57 khác hư hại nặng. 4 trực thăng và 3 chiếc A-1 Skyraiders cũng bị phá hủy. 5 lính Mỹ chết và 76 lính khác bị thương.[6][9]
- Ngày 24/12, cư xá Brinks ở Sài Gòn là nơi Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam thuê làm nơi trọ cho nhiều sĩ quan cao cấp Mỹ, bị đánh bom bởi một thành viên MTDTGPMN đóng giả làm sĩ quan Việt Nam Cộng hòa. Bom được đưa vào garage của cư xá và cho phát nổ làm sập 3 tầng của tòa nhà, làm chết 2 sĩ quan Mỹ và làm 107 người khác bị thương [6][10]. Sự kiện này do các biệt động thành là Bảy B (Nguyễn Thanh Xuân), Nguyễn Hóa, Nguyễn Nông, Nguyễn Thông thực hiện[2].
Năm 1965[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 7/2, căn cứ quân sự Mỹ tại Pleiku bị tấn công làm 8 lính Mỹ thiệt mạng, 104 lính Mỹ bị thương. Sự kiện này được tổng thống Johnson lấy lý do để leo thang ném bom miền Bắc trong chiến dịch Sấm Rền [11].
- Ngày 10/2, trại tuyển quân ở Quy Nhơn bị tấn công, giết chết 23 lính Mỹ.
- Ngày 30/3, 3 thành viên của MTDTGPMN, trong đó có Bảy Bê (1 biệt động nổi tiếng) phối hợp đánh bom Tòa Sứ quán Mỹ tại đường Hàm Nghi. 22 người trong đó có 19 người Việt, 2 nhân viên Mỹ và 1 người Philippin bị thiệt mạng, 83 người khác bị thương, trong đó có phó đại sứ Mỹ A. Johnson[4]. Phía MTDTGP tuyên bố đã thiêu rụi 30 xe ô tô, làm 100 nhân viên Mỹ chết và bị thương [2]. Các biệt động tham gia là Tư Việt, Bảy B và Thế, trinh sát bộ binh. Người trinh sát cho trận đánh là Năm Nông, Minh Nguyệt [2].
- Ngày 25/6, nhà hàng nổi Mỹ Cảnh trên sông Sài Gòn, nơi lính Mỹ tới ăn tiệc bị đặt bom làm hơn 40 người thiệt mạng, trong đó có chín người Mỹ và làm hơn 50 người bị thương [12].
- Ngày 1/7, sân bay Biên Hòa bị đặc công quân Giải phóng tấn công. 3 máy bay vận tải cỡ lớn C-130, 3 mày bay F-102 bị phá hủy, 3 chiếc F-102 khác bị hư hại nặng. 1 đặc công tử trận.[9]
- Ngày 18/8, Tổng Nha Cảnh sát bị đánh bom làm 6 người chết và 15 người bị thương [4].
- Ngày 4/10, Sân vận động Cộng Hòa bị đặt bom khi đang lính Mỹ tổ chức trưng bày làm 11 người thiệt mạng, 42 người khác bị thương. Phía MTDTGP tuyên bố diệt và làm bị thương 49 lính VNCH.[4]
- Ngày 4/12, khách sạn Metropol bị đánh bom làm nhiều xe cộ bị phá hủy. Không rõ số thương vong.[4].
- Ngày 30/12, ký giả Từ Chung của tờ Chính Luận chuyên viết bài ủng hộ Mỹ-VNCH đã bị đội biệt động 67 ám sát khi về nhà ăn trưa. Trước đó ký giả này đã đăng tải những lời cảnh báo mà ông ta đã nhận được từ phía MTDTGP[4][13].
Năm 1966[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 7/1, 1 quả mìn Claymore phát nổ tại cổng sân bay Tân Sơn Nhất làm 2 người chết.[14]
- Ngày 1/4, khách sạn Victoria đường Trần Hưng Đạo (Tòa nhà phía trước Bệnh viện Chấn thương chỉnh hình ngày nay) bị tấn công bằng xe bom. Quả bom khoảng 100 kg gây hư hỏng nặng cho tòa nhà và làm thiệt mạng 6 người.
- Ngày 13/4, sân bay Tân Sơn Nhất bị tấn công. Có 120 nhân viên quân sự của Mỹ bị thương vong, 62 máy bay các loại bị bắn hỏng.
- Ngày 23/8, tàu USS Baton Rouge Victory giãn nước 15.000 tấn bị trúng thủy lôi và chìm trên sông Lòng Tàu làm chết 7 lính Mỹ[15]. Hàng nghìn tấn vũ khí, hàng hóa cũng chìm theo con tàu.
- Ngày 3/12, 1 đơn vị MTDTGP phá thủng chu vi phòng thủ 20,8 km xung quanh Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt và pháo kích khu vực trong 4 giờ. Lực lượng bảo vệ Mỹ và VNCH sau đó đã đẩy lui những người tấn công, tuyên bố giết chết 18 quân MTDTGP. 1 máy bay trinh sát 101 của Mỹ bị hư hại nặng. Quân du kích quay lại trong đêm cùng ngày, nhưng lực lượng bảo vệ lần nữa đẩy lui quân du kích, giết thêm 11 quân MTDTGP trong trận thứ nhì. Trong 2 trận này, quân Mỹ tổn thất 3 chết và 15 bị thương, quân VNCH chết 3 và bị thương 4. 20 máy bay Mỹ các loại bị phá hỏng[16] Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố phá hủy 260 máy bay các loại, 1 kho bom 300 tấn, 13 xe quân sự, tiêu diệt 600 sĩ quan và lính Mỹ, VNCH.[17]
Năm 1967[sửa | sửa mã nguồn]
- 6h sáng ngày 13/1, nữ biệt động Nguyễn Thị Bích Nga cùng đồng đội đã nã hàng loạt quả pháo liên tiếp bằng 1 khẩu pháo không có bàn đế vào khuôn viên Sở chỉ huy của tướng William Westmoreland - chỉ huy quân viễn chinh Mỹ ở Việt Nam.[18]
- *Ngày 27/2, sân bay Đà Nẵng bị pháo kích. Phía QGP tuyên bố phá hủy 112 máy bay, 270 xe quân sự và khiến 1.685 quân địch thiệt mạng hoặc bị thương.[19] Phía Hoa Kỳ công bố có 150 lính Mỹ thiệt mạng hoặc bị thương, 7 kho bị phá hủy, 13 máy bay bị bắn cháy và 2 xe liên lạc với thiết bị điện tử bí mật bị bắn cháy, số lượng thương vong của quân Việt Nam Cộng hòa không có số liệu thông báo.[20][21]
- *Ngày 15/7, sân bay Đà Nẵng bị pháo kích. Hoa Kỳ tuyên bố 8 lính Mỹ thiệt mạng, 175 lính khác bị thương, 1 kho bom bị phá hủy, 13 khối nhà của binh sĩ, 10 máy bay bị phá hủy và 49 máy bay khác bị bắn cháy (trong đó có một số McDonnell Douglas F-4 Phantom II, tài liệu Hoa Kỳ không công bố số liệu thương vong của Việt Nam Cộng hòa.[20][22] Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố phá hủy hoặc đánh hỏng 87 máy bay, 250 xe quân sự, 1 kho chứa bom và khiến 548 lính Mỹ và VNCH thiệt mạng hoặc bị thương trong đó chủ yếu là phi công và kỹ thuật viên mặt đất, làm tê liệt hoạt động của sân bay.[19]
Năm 1968[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 11/3, 30 đặc công Việt Nam cùng 9 lính công binh bắt đầu đợt tấn công căn cứ radar Lima 85 của Mỹ đặt tại Lào. Căn cứ được đặt trên độ cao 1.700m, được bao quanh bởi các vách đá, chỉ có một con đường dốc xuống tới 1 bãi đáp dài 700m. Các đặc công được trang bị súng trường AK-47, súng SKS, thuốc nổ, lựu đạn và 3 ống phóng lựu. Lúc 18h, 1 đợt pháo kích hỗ trợ cho nhóm đặc công dọn mìn và mở đường đến căn cứ. Đến 19h, các đặc công Việt Nam bắt đầu trèo lên vách đá, chia làm 5 nhóm để đồng thời tấn công từ nhiều phía. Các đặc công Việt Nam đã vào vị trí vào lúc 3h sáng, tiêu diệt lính gác và trạm radar TSQ-81 bằng các ống phóng lựu. Chỉ huy căn cứ là thiếu tá Clarence Barton và nhiều nhân viên kỹ thuật của không lực Mỹ khi chạy ra đã bị đặc công Việt Nam tiêu diệt. Nhóm đặc công chỉ tổn thất 1 người trong khi đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh giá trị và tiêu diệt ít nhất 42 quân địch, bao gồm lực lượng Thái Lan, người Mông và các nhân viên quân sự Mỹ. Chỉ có 6 trong 18 nhân viên CIA và phi công Mỹ tại căn cứ là sống sót, sự kiện này được Mỹ giấu kín trong suốt 3 thập kỷ[23].
- Trận Mậu Thân
Rạng ngày 30/1, các du kích thuộc MTDTGP cùng quân chính quy Quân đội Nhân dân Việt Nam và các lực lượng tại chỗ đã đồng loạt tấn công các khu đô thị cùng các căn cứ quân sự tại Nam Việt Nam. Chiến sự dai dẳng kéo dài nhiều tuần sau đó.
Sài Gòn là 1 trong những nơi bị tấn công đầu tiên vào các mục tiêu quan trọng: Hơn 35 đơn vị đã tập kích Sân bay Tân Sơn Nhất, Dinh Tổng thống, Đại sứ quán Mỹ, Đài phát thanh Sài Gòn, Bộ tổng Tham mưu. Các căn cứ như Long Bình, Phù Đổng, Cổ Loa, Hạnh Thông Tây, Đồng Dù (Củ Chi) cũng bị tấn công. Riêng các mục tiêu như Trụ sở cơ quan viện trợ MACV, Bộ tư lệnh hải quân, kho xăng Nhà Bè, Tổng nha Cảnh sát không thực hiện được.
Tòa đại sứ quán Mỹ bị tấn công và chiếm đóng gần nửa ngày mới bị thất thủ.
Tổ biệt động số 11 do đội trưởng Ba Đen chỉ huy (quê Thái Bình, cán bộ đoàn F100) và đội phó Út Nhỏ (quê Tiền Giang, chính trị viên) tổng cộng 17 người. Họ sử dụng bộc phá đánh sập 1 mảng tường bao quanh tòa đại sứ, diệt lính gác Mỹ bên ngoài, bắn hạ và bắt sống toàn bộ các quân nhân, viên chức Mỹ ở bên trong. Với ý đồ chiếm giữ tòa đại sứ 30 phút đợi quân tiếp ứng đến rồi sẽ rút. Nhưng quân tiếp ứng bị lạc, 17 chiến sĩ biệt động bị vây bên trong tòa nhà. Họ chống cự dữ dội bằng B40, AK, AR15 và lựu đạn, thuốc nổ. Đại sứ Mỹ Bunker chạy thoát. Quân đội Mỹ cố gắng phá cửa tràn vào. Trận chiến được các phóng viên truyền hình trực tiếp gây chấn động mạnh đến tình hình chính trị nước Mỹ. Sáng sớm hôm đó, sư đoàn không vận 101 điều 1 đơn vị nhảy dù đổ lên nóc tòa nhà. Bên ngoài, quân cảnh Mỹ gây sức ép tiến vào trong, quân biệt động chống cự đến người cuối cùng. Toàn bộ 16 người tử trận, Mỹ bắt giữ đội trưởng Ba Đen bị thương nặng ngất trong đống đổ nát. 5 binh sĩ Mỹ chết tại chỗ. Thiệt hại của quân Mỹ rất nghiêm trọng: 1 nhân viên Việt Nam Cộng hòa chết, 141 binh sĩ Mỹ bị thương, 17 người chết tại bệnh viện.
Tại phi trường Tân Sơn Nhất có 181 bộ đội MTDTGP thuộc tiểu đoàn 16 đã bị thương vong trong trận tấn công vào sân bay. Đổi lại, quân Mỹ có 23 lính tử trận và 86 bị thương, quân VNCH chết 32 và bị thương 89, 13 máy bay Mỹ bị bắn hỏng trong trận này.[16]
Tại Chợ Lớn, chiến sự ác liệt diễn ra làm nhiều nhà dân bị hư hại nghiêm trọng.
- Ngày 2/3, một cuộc phục kích diễn ra gần sân bay Tân Sơn Nhất làm 48 lính Mỹ chết.[1][24]
- Ngày 5/5, MTDTGPMN tiến hành Mậu Thân đợt 2 nhưng bị đánh lui khỏi nội đo.[1]
- Tháng 9, QGPMN cùng QĐNDVN mở đợt 3 nhưng không xoay chuyển được chiến cuộc. Tổng thương vong của nhân lực 2 phe cùng với thường dân lên đến gần nửa triệu.
Năm 1969[sửa | sửa mã nguồn]
- Tháng 2, MTDTGPMN tiến hành tổng tấn công tương tự Mậu Thân nhưng với cường độ yếu hơn.
Thập niên 1970[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1970[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 19/1, 1 nhóm lực lượng trong đó có ông Võ Văn Hữu đã tổ chức đánh mìn tại khu vực cầu Bến Nọc làm chết và bị thương 75 lính Mỹ và VNCH.
Năm 1971[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 10/11, tổ trinh sát vũ trang Ban An ninh T4 bao gồm Vũ Quang Hùng và Lê Văn Châu ám sát Nguyễn Văn Bông (Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, lãnh đạo của Đảng Tân Đại Việt, người thành lập Phong trào Quốc gia cấp tiến, sắp được bổ nhiệm làm Thủ tướng VNCH) tại ngã tư Cao Thắng - Phan Thanh Giản bằng 4 kg chất nổ C4 được liên kết với 3 trái lựu đạn.[25]
Năm 1972[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 2/8, kho xăng ở Đà Nẵng bị biệt động thành Đà Nẵng đặt bom phá hủy số lượng lớn xăng dầu. Sân bay Đà Nẵng bị pháo kích, 4 máy bay bị hư hại, 1 lính Mỹ chết và 20 bị thương.[26]
- Ngày 13/8, đoàn đặc công 113 đánh khu kho 53 Tổng kho Long Bình. Hàng chục chiến sĩ chia làm 3 mũi đột nhập đặt 108 khối thuốc nổ hẹn giờ. Vào lúc 4h sáng ngày 14/8, các khối thuốc nổ nổ tung, phá huỷ 200 kho, 17 dãy nhà, thiêu huỷ 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu.
- Ngày 10/9, sân bay Biên Hoà bị đặc công tấn công. 1/4 căn cứ bị phá hủy, các đám cháy kéo dài tới mấy ngày. Nhiều lính và phi công Mỹ chết, hơn 50 bị thương chưa kể tổn thất của quân VNCH. 60 trực thăng và 1 chiếc C-141 bị phá huỷ[27], 30 trực thăng UH-1 bị hư hại (chưa kể số hư hại của các loại máy bay khác)[28] 6 đặc công quân Giải phóng tử trận.[29]
- Ngày 14/12, đoàn đặc công 113 đột nhập vào bãi để xe ở cao điểm 50 của Tổng kho Long Bình, gài 61 quả mìn tiêu huỷ gần 200 xe quân sự.
Năm 1973[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 3/12, Đặc công rừng Sác tấn công kho xăng Nhà Bè, kho xăng bị cháy suốt 10 ngày đêm, thiêu huỷ hàng triệu lít xăng.[1]
Năm 1974[sửa | sửa mã nguồn]
- Ngày 9/3, trường tiểu học Cai Lậy (Tiền Giang) bị trúng đạn pháo kích. Theo tuyên bố của tướng Lâm Quang Thi, vụ tấn công này đã làm 34 học sinh bị chết và hơn 70 người khác bị thương[30], còn theo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thì có 32 học sinh chết và 55 bị thương[31]. Tuy nhiên, phía MTDTGPMN phủ nhận họ là thủ phạm trong vụ này, còn các phóng viên quốc tế tỏ ý nghi ngờ tính xác thực của vụ việc vì họ không được phía Việt Nam Cộng Hòa cho phép tới hiện trường để điều tra hoặc phỏng vấn nhân chứng. Cuối cùng, tới ngày 30/6/2005, theo tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, thủ phạm gây ra vụ thảm sát tại Cai Lậy là Quân lực Việt Nam Cộng hòa.[32]
Năm 1975[sửa | sửa mã nguồn]
- Đây là trận đánh cuối cùng có sự tham gia của biệt động quân Giải phóng. Vào khoảng thời gian này, biệt động quân Giải phóng đã ngưng các hoạt động quân sự để tham gia vận động người dân nổi dậy giành chính quyền, việc quân sự do các đơn vị QĐNDVN thực hiện. Trận cầu Rạch Chiếc có sự tham gia của hàng trăm lính đặc công QĐNDVN và các chỉ huy là cựu biệt động thành của đơn vị Nguyễn Văn Tàu. Đây cũng là 1 trong những trận đánh cuối cùng của cuộc chiến. Lực lượng biệt động còn dẫn đường cho xe tăng quân Giải phóng tiến vào những mục tiêu quan trọng ở Sài Gòn. Đây cũng là trận đánh ác liệt nhất trong những ngày cuối chiến tranh, khi QLVNCH treo xác lính đặc công trên cầu, và 2 bên chịu thương vong lên đến hàng trăm binh sỹ.
Ngoài lãnh thổ Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Giải phóng đã nhiều lần tổ chức tấn công vào các căn cứ, sân bay của Mỹ tại Lào, Campuchia và Thái Lan. Dưới đây là một số vụ đã được tài liệu Mỹ công bố:
Tấn công căn cứ radar Lima 85[sửa | sửa mã nguồn]
Đầu tháng 3/1968, 30 đặc công Việt Nam cùng 9 lính công binh bắt đầu đợt tấn công căn cứ radar Lima 85 của Mỹ đặt tại Lào. Căn cứ được đặt trên độ cao 1.700m, được bao quanh bởi các vách đá, chỉ có một con đường dốc xuống tới 1 bãi đáp dài 700m. Các đặc công được trang bị súng trường AK-47, súng SKS, thuốc nổ, lựu đạn và 3 ống phóng lựu. 18h ngày 11/3, 1 đợt pháo kích hỗ trợ cho nhóm đặc công dọn mìn và mở đường đến căn cứ. Đến 21h tối, các đặc công Việt Nam bắt đầu trèo lên vách đá, chia làm 5 nhóm để đồng thời tấn công từ nhiều phía.
Các đặc công Việt Nam đã vào vị trí vào lúc 3h sáng, tiêu diệt lính gác và trạm radar TSQ-81 bằng các khẩu súng phóng lựu. Chỉ huy căn cứ là thiếu tá Clarence Barton và nhiều nhân viên kỹ thuật của không lực Mỹ khi chạy ra đã bị đặc công Việt Nam tiêu diệt. Nhóm đặc công chỉ tổn thất 1 người trong khi đã phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh giá trị, giết chết 12 nhân viên quân sự Mỹ và ít nhất 42 lính gác người Thái Lan và người Mông, chỉ có 6 trong số 18 nhân viên CIA và phi công Mỹ tại căn cứ là sống sót. Một số lượng lớn vũ khí quanh căn cứ đã bị quân Việt Nam thu giữ, bao gồm 1 khẩu pháo 105mm, 1 khẩu pháo 85mm, 4 khẩu súng không giật, 4 súng cối hạng nặng, 9 súng máy hạng nặng và lượng đạn dược khổng lồ. Sự kiện này được chính phủ Mỹ giấu kín trong suốt 3 thập kỷ[23].
Vụ đột kích sân bay Pochentong, Campuchia[sửa | sửa mã nguồn]
Sân bay Pochentong là sân bay lớn nhất ở Campuchia, chứa hơn 100 máy bay chiến đấu và vận tải của quân đội Lon Nol. Ngày 18/1/1971, sân bay này tiếp nhận thêm 30 máy bay của quân đội Sài Gòn để phục vụ cho các cuộc tấn công vào quân Giải phóng ở biên giới.
Vào đêm ngày 21-22/1/1971, Đội đặc công 25 và Tiểu đoàn 7 đặc công Phước Long, do đoàn trưởng Tống Viết Dương chỉ huy tiến hành tập kích sân bay. Khoảng 100 lính đặc công và công binh Quân đội Nhân dân Việt Nam đã âm thầm vượt qua vành đai phòng thủ "Biệt khu Thủ đô" (RMS) do quân đội Quốc gia Khmer (quân Lon Nol) thiết lập xung quanh Phnôm Pênh và thực hiện 1 cuộc đột kích ngoạn mục vào căn cứ không quân Pochentong.
Toàn đội chia thành 6 phân đội nhỏ hơn, được trang bị chủ yếu là súng trường AK-47 và súng chống tăng RPG-7. Các tốp đặc công Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thành công trong việc bí mật tháo gỡ các lớp hàng rào kẽm gai và nhanh chóng áp đảo số lính gác của Tiểu đoàn an ninh làm nhiệm vụ đêm đó.
Sau khi vào được bên trong khu căn cứ, các đội đặc công liền tung ra 1 đợt bắn phá dữ dội bằng các loại súng cá nhân và súng phóng lựu, bắn vào bất kỳ chiếc xe và máy bay nào mà họ thấy trên khu vực đậu xe tiếp giáp với đường băng và các công trình gần đó; 1 trong những đội đặc công thậm chí còn trèo vào cạnh khu nhà ga thương mại của sân bay dân sự và sau khi chiếm giữ vị trí tại nhà hàng quốc tế bên trên mái nhà, họ bắn 1 quả đạn RPG-7 vào kho chứa bom napalm gần nhà để máy bay của quân đội Sài Gòn, gây cháy nổ dữ dội. Khoảng 50 lính Lon Nol tử trận và khoảng 300 bị thương[33], nhiều thiết bị sân bay và xe cơ giới, 69 máy bay các loại (52 chiếc của không quân Lon Nol và 17 chiếc của Không quân Sài Gòn) bị phá hủy hoặc hư hại nặng trong trận này[34], trong khi Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ tổn thất 3 người tử trận.
Sân bay phải ngừng hoạt động hơn 10 ngày để sửa chữa. Cuộc tập kích đã xóa sổ phần lớn trang bị của không quân Lon Nol. Toàn bộ kế hoạch chi viện bằng đường không cho cuộc hành quân "Toàn thắng 1-71" của quân đội Sài Gòn bị phá sản, góp phần vào thất bại trong chiến dịch "Chenla 2" trên mặt trận đường 6 - đông bắc Campuchia.
Căn cứ Udorn, Đông Bắc Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Một đêm cuối tháng 5/1968, sau khi dùng chiến thuật đặc công đột nhập và đặt mìn vào 4 máy bay, trên đường rút ra, 5 chiến sĩ tình báo bị phát hiện. Thượng úy Bùi Thế Sách và Trung úy Lê Đức Mục tình nguyện ở lại kìm chân đối phương để 3 người còn lại rút lui an toàn. Sau 1 hồi đấu súng, chưa kịp rút cùng đồng đội thì 4 quả mìn phát nổ, Bùi Thế Sách và Lê Đức Mục hy sinh. Trận đánh sân bay Udorn đã gây thiệt hại đáng kể cho không quân Mỹ: 4 máy bay F-5 bị phá hủy, 24 sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ thương vong. Bùi Thế Sách và Lê Đức Mục được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Ngày 26/7/1968, khoảng 22h25, 1 tốp 5 chiến sĩ đặc công sử dụng súng tự động bắn chế áp lính canh và các trạm gác bảo vệ sân bay, trong khi 1 tốp khác xông tới bắn vào chiếc máy bay C-141 đang lăn bánh ra đường băng và ném bộc phá trúng vào động cơ máy bay, chiếc máy bay bùng cháy. Sau đó, đội đặc công này chạy tới cụm nhà ga và phá hủy 1 máy bay F-4 và rút lui. 1 chiếc HH-43 cất cánh yểm trợ cho đội bảo vệ sân bay, cũng bị đặc công bắn hỏng nhẹ. Một số phương tiện kỹ thuật cũng bị phá hủy, 1 đặc công quân Giải phóng tử trận.
Căn cứ Ubon, miền Tây Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]
Có tổng cộng 3 trận đánh tại đây:
- Trận đầu tiên vào ngày 28/7/1969, lúc 1h30 rạng sáng, 3 đặc công bắn hạ 2 lính bảo vệ sân bay và 1 chó nghiệp vụ đang tuần tra và đánh cháy 2 máy bay C-47 và 1 xe ca, hệ thống nhìn đêm cũng bị vô hiệu hóa.
- Trận thứ 2 tại Ubon vào ngày 11/1/1970, 1 tốp đặc công tấn công vào nhà ga sân bay và chạm súng với lính canh. Sau vụ đấu súng, 5 đặc công tử trận, số còn lại phải rút lui, cuộc tấn công này coi như thất bại. Không rõ thương vong của lính canh Thái Lan.
- Trận cuối cùng tấn công vào Uborn, ngày 1/6/1972, 2 đặc công hy sinh, 2 lính canh bảo vệ sân bay bị hạ, không có thiệt hại về máy bay.
Sân bay Utapao, nơi đặt căn cứ B-52[sửa | sửa mã nguồn]
Sân bay Utapao là nơi Mỹ đặt căn cứ máy bay B-52. Sân bay này được coi là được bảo vệ ở cấp độ cao nhất ở Thái Lan.
Vào chiều tối ngày 3/8/1968, 2 lính quân báo Phùng Hồng Lâm và Lê Văn Đình chuẩn bị 2 quả bộc phá, mỗi quả 5 kg, gài kíp định giờ, sau đó dùng chiến thuật đặc công vượt qua những hàng rào dây thép gai rồi lao thật nhanh đến 2 chiếc B-52 đỗ cạnh nhau. Gài xong bộc phá đúng 4h ngày 4/8/1968, 2 tình báo viên nhanh chóng rút khỏi sân bay, đến chỗ tập kết tắm rửa, mặc quần áo rồi ung dung bắt xe khách trở về Băng Cốc. Xe chạy được 1 quãng thì từ phía sân bay Utapao phát ra 2 tiếng nổ lớn. 2 ngày sau đó, báo chí Thái Lan đăng tin sân bay Utapao bị tập kích, 2 chiếc B-52 bị hỏng nặng và 2 chiếc khác hỏng vừa, hơn 20 sĩ quan và nhân viên kỹ thuật Mỹ thiệt mạng. Do đài chỉ huy bị hư hại, nên căn cứ không quân này phải đóng cửa 10 ngày để sửa chữa. Phùng Hồng Lâm được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Lúc 2h22 sáng 10/1/1972, 3 lính đặc công gồm Bùi Văn Phương, Vũ Công Đài, Trần Thế Lại (Tiểu đoàn 1A - Bộ Tư lệnh Đặc công) đột nhập vào sân bay. Bị phát hiện, tổ đã nổ súng tiêu diệt cả toán tuần tra gồm 2 lính Mỹ và 1 chó bec-giê. Bùi Văn Phương và Vũ Công Đài lao nhanh đến mục tiêu, dùng lựu đạn và thuốc nổ đánh vào từng chiếc máy bay. 3 khối bộc phá phát nổ và đánh hỏng nặng 3 chiếc B-52 (phía Mỹ chỉ công nhận có 1 chiếc B-52 hỏng vừa, 2 chiếc B-52 khác bị hỏng nhẹ). Nhiều lính Thái Lan bị hạ, phía Việt Nam không có thiệt hại. Cả ba đặc công tham gia trận đánh đều được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.