Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Friday, 30 October 2015

MẤY THẰNG KHỐN NẠN NGU NGỐC NẦY GIẢ BỘ KHÔNG BIẾT

VNCH KHÔNG HỀ XƯNG "CHIẾN SĨ" NHƯ VIỆT CỘNG - CỰU QUÂN NHÂN QL/VNCH SAO KHÔNG XƯNG CHO DANH CHÁNH NGÔN THUẬN MÀ LẠI LIẾM KU VIỆT CỘNG ? NGUYỄN XUÂN VẸM và HỒ VĂN KỲ THÚI CÓ HỌC MÀ THÍCH LÀM CHÓ GIỮ CẦU TIÊU CHO VIỆT CỘNG./- Mt68



Thông Tin Cần Thiết
Đến Huynh Đệ C.TSQ và Chiến Hũu VNCH.
v/v: CTSQ Phan Ngọc Lượng  đã từ chức Chủ Tịch Liên Hội Cựu Chiến Sĩ Nam Cali.
Thưa Qúy Huynh Đệ và Qúy Chiến Hũu,
Trưa nay , ngày thứ Sáu 30 tháng 11 năm 2015,  Anh Việt, một cựu Trung-Úy Phi Công  trực thăng, và cũng là bạn cùng khóa với chung tôi,  anh  cũng là một thành viên của Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH tại Nam Cali  đã gọi điện thọai cho chúng tôi  và cho biết như sau:
1/. Chiến-Hũu  Phan Ngọc Lượng đã chính thức  từ chức  Chủ Tịch Liên Hội  CCS VNCH vào ngày Chúa Nhựt  25 tháng 10 năm 2015, và Liên Hội Cựu Chiến Sĩ VNCH Nam Cali đã đề cử Chiễn Hũu Nguyễn Văn Hùng, Hội-Trưởng Gia Đình Mũ Đỏ  đảm nhận chức vụ  Tân Chủ Tịch Liên Hội CCS Nam Cali thay thế Chiến Hũu Phan  Ngọc Lượng  kể từ nay cho đến  nhiệm kỳ  bầu cử  tới .
2/. Và Chiến Hũu Phan Ngọc Lượng  còn cho  các Chiển-Hũu trong Liên Hội CCS biết, ngòai việc từ chức Chủ Tịch Liên Hội CCS Nam Cali, Chiến Hũu Phan Ngọc Lượng  còn cho biết cũng đã từ chức Hội Trưởng Hội C.TSQ Nam Cali, và chức vụ Hội Trưởng  C.TSQ Nam Cali  hiện nay do C.TSQ Văn Công Mẫn phụ trách.
            Tuy chưa nhận được văn thư nào của Liên-Hội cũng như Hội C.TSQ Nam Cali thông báo, nhưng  chúng tôi cũng xin được gởi lời chúc mừng Tân Chủ Tịch Liên Hội CCS Chiến-Hũu Nguyễn Văn Hùng, và  C.TSQ Văn Công Mẫn, Tân Hội Trưởng  C.TSQ Nam Cali (hay Xử Lý)  được  hòan thành nhiệm vụ tốt đẹp do anh em  trao phó. 
             Riêng anh em C.TSQ  trước sau  luôn chủ trương  ái hũu  giúp đỡ nhau trong khi tối lửa tắt đèn mà thôi , và anh em C.TSQ chúng tôi  không bao giờ muốn hay có ý-định  xen vào nội bộ  của bất cứ Tổ Chức hay Hội Đòan nào bên ngòai  C.TSQ,  và trong thời gian qua anh em C.TSQ  chúng tôi  rất lấy làm tiếc vì vạn bất đắc dĩ  mới phải lên tiếng  về việc một số C.TSQ đã lợi dụng  uy-tín (credit)  để ra ngòai  tập thể C.TSQ và gây  tiếng thị phi mà  khó tránh khỏi  làm buồn lòng một số anh em khác .
            Riêng trường hợp C.TSQ Phan Ngọc Lượng, nay đã trở lại cuộc sống bình thường, không còn nắm giữ bất cứ chức vụ nào trong cũng như ngòai tập thể C.TSQ VN, vậy kính mong  anh em  C.TSQ  ai có  vấn đề gì với C.TSQ Phan Ngọc Lượng trước kia xin vui lòng cho qua, cũng như  sẽ không bao giờ  đề cập đến công việc  của các Tổ Chức và Hội Đòan khác (nếu không có sự hiện diện của kẻ núp dưới danh nghĩa  CTSQ  để gây tai tiếng  chung ).
Trân Trong,
TM. C.TSQ Lâm Ngọc Chiêu,
Làng Câu AET .

XIN CHO LINH HỒN YÊN NGHỈ NGHÌN THU
Vĩnh Chánh

Để tưởng nhớ đến các chiến sĩ đã hy sinh trong Chiến Trường Việt Nam và mến tặng các BS. Quân Y của Quân Lực VNCH, đặc biệt các đàn anh trong Tiểu Đoàn Quân Y Nhảy Dù và các y sĩ tiền tuyến từng sát cánh với các đơn vị tác chiến.

Một cuối tuần đầu thu, có một cuộc hội ngộ nhỏ QYND diễn ra ở quán cà phê Mưa Rừng trong buổi sáng mát lạnh tại Little Saigon. Với sự hiện diện của niên trưởng Trần Tấn Phát, quý đại ca Phạm Gia Cổn, Mai Minh Chí, Nguyễn Mậu Trinh đi cùng anh vợ là Bửu Khải, tức họa sĩ Nguyên Khai và người bạn Nguyễn Đình Cường.

Ngồi bên nhau, BS. Cổn tình cờ đọc cho tôi nghe vài câu thơ của BS. Trần Đức Tường. Tò mò kích thích, về nhà lục soạn kho bài cũ trong tháng 8, 2010 của web svqy.org, tôi tìm thấy bài thơ “Tiễn Anh” do y sĩ Thiếu Tá Trần Đức Tường, Tiểu Đoàn Trưởng TĐQY của Sư Đoàn Nhảy Dù VNCH, là “Đích Thân” của tôi trong thời gian tôi phục vụ TĐQYND, sáng tác khi lần đầu tiên tham dự cuộc hành quân với đơn vị tác chiến trong chức vụ y sĩ trưởng TĐ3ND. Bài thơ đã được phổ nhạc bởi Y Sĩ Đại Úy Phạm Gia Cổn, nguyên y sĩ trưởng TĐ1ND, là đơn vị tác chiến lẫy lừng mà tôi đến nhậm chức hai năm sau.

Đây không phải là một bài thơ hay khúc nhạc diễn tả sự từ giả “Lên xe tin em đi, chưa bao giờ buồn thế” hay nói lên sự sầu vương của chia lìa trong tình yêu “Giờ vĩnh biệt tôi ngại ngùng không nói. Không dám nhìn đôi mắt nhỏ ngây thơ”. Đây cũng không phải là bài thơ soạn theo lời kể chuyện hay thuộc loại phóng sự chiến trường. Đây chính là một bài thơ “sống” với “cảm xúc thật”. Bởi chính tác giả đã làm nhân chứng trước một cái chết hào hùng ngay tại mặt trận khi tiếng súng đang còn rền vang. Với tất cả sự cẩn thận tinh tế của một bác sĩ, lòng kính trọng đối với người quá cố và lời nguyện cầu kín đáo, người y sĩ tiền tuyến dang rộng tay tiếp nhận xác của đồng đội đã tử thương trước khi đến lều cấp cứu, ôm choàng thi thể, dù chỉ để vuốt mắt, thấm đi giòng máu tươi đang còn rỉ, chùi rửa băng bó vết thương.

Trong khi bên ngoài chiến sự vẫn còn tiếp diễn, dưới ánh sáng nhảy múa của hỏa châu và trận pháo, tác giả nằm sát trong hố cá nhân ghi vội những cảm nghĩ đầy xúc động của mình, thể hiện tình cảm thiêng liêng giữa những người từng sát cánh chiến đấu bên nhau trong tinh thần frères d’armes.

Tôi đọc bài thơ “Tiễn Anh” bằng mắt, rồi bằng tiếng. Lúc đầu chỉ ư ê, rồi lớn dần. Tôi lập lại nhiều lần, và nhiều lần hơn nữa. Tôi dừng lại ở từng chữ một của mỗi giòng để cố hình dung khung cảnh trận chiến ngày hôm ấy, ráng soi thấu tâm trạng của anh Tường trong lần baptême de feu này. Sự xúc động mãnh liệt thế nào để Anh sáng tác bài thơ ấy.

Những câu thơ bảy chữ, ngắn nhưng đủ để diễn tả cái chết bất ngờ đột ngột đến trong những giây phút đầu tiên của trận chiến. Với lời thơ chính xác, đau xót nhưng khí khái và sắc bén như mủi nhọn đâm thẳng vào lòng người.

Nhảy xuống cùng tôi trên trận này
Hờn lên khóe mắt, súng cầm tay.
Ai ngờ trong đợt xung phong ấy
Anh chết khi nào anh chẳng hay
Vì không trực tiếp phỏng vấn “Đích Thân”, tôi đành phải một mình mường tượng hình ảnh những chiến binh ND xông vào cuộc chiến hôm ấy. Tôi muốn nghĩ đây là một trận chiến với cảnh nhảy dù ngay trên vùng địch để lòng mình chợt reo lên như những cánh dù bung trong gió. Nhưng dù có nhảy từ trực thăng hay vào vùng bằng đường bộ, “nhảy” đây có nghĩa là nhảy vào trận chiến, xông pha vào chốn đầu tên mủi đạn, can cường chấp nhận mọi gian khó, hy sinh. Súng cầm tay, đạn đã lên nòng, người chiến binh quyết tâm đánh bật quân địch. Không như ánh mắt dã tâm của kẻ xâm lăng luôn hằn vẻ hận thù, ngược lại ánh mắt anh chỉ thoảng “hờn” một cách chính đáng, như thầm ngạo nghễ nói lên chúng mầy bố láo quá! Ta sẽ cho chúng mầy biết tay!

Rồi người chiến sĩ và đồng đội của anh tiến dần đến phòng tuyến của địch. Đạn pháo rơi tơi bời xuống trận địa vẫn không cản được sức tiến của trung đội anh; những tiếng đạn nhỏ bay rít trong gió hay nổ lụp chụp xung quanh anh vẫn không làm anh  giùn bước. Anh vẫn bình tỉnh vừa bắn, vừa cẩn thận tiến chậm về hướng rừng thưa. Nơi địch nằm chờ trong các công sự chiến đấu hay chui r úc dưới các hầm hố. Rồi theo lệnh trên, cánh quân anh tạm dừng chân. Trung đội anh nằm rãi dài dựa sau bờ ruộng. Qua điện đài, người đại đội trưởng xin cấp trên yểm trợ bằng súng cối mong dập tắc phần nào hỏa lực của địch trước khi quyết định dứt điểm đối phương.

Cùng với 2 trung đội bạn, trung đội của anh được lệnh cởi bỏ balô, gắn lưởi lê lên nòng súng, chuẩn bị xung phong trong khi đạn súng cối rớt liên tục và chính xác vào phòng tuyến địch. Ngay sau tiếng nổ của viên đạn súng cối cuối cùng, trong tiếng hô xung phong vang rền trời, anh và đồng đội đồng loạt đứng thẳng dây, la lớn những tiếng xung phong đồng thời  phóng mình về phía trước, vừa chạy vừa bắn. Chợt thấy ánh sáng loé lên từ khẩu thượng liên của địch nằm kế thân cây lớn, anh chạy nhanh hơn về hướng đó, đồng thời rút quả lựu đạn treo ở dây ba chạc. Không một do dự, anh dùng răng cắn bung kíp lựu đạn và tung mạnh quả lựu đạn vào ổ thượng liên. Cùng lúc ấy, thân hình anh bổng khựng lại rồi anh ngã sập xuống, không kịp nhìn thấy cây thượng liên cùng vài ba thân thể bị văng tung lên trời sau tiếng nổ của quả lựu đạn. Một viên đạn trúng vào đầu anh, đốn ngã anh tại chổ. Sau cuộc xung phong chiếm được vị trí địch, xác anh lính chiến được cáng về lều quân y.

Cũng có thể người chiến sĩ này là một khinh binh đi mở đường cho trung đội của mình. Anh vừa bước đi chậm rải, vừa cẩn thận nhìn trước và 2 bên, nghe ngóng động tỉnh xung quanh. Đi được mươi bước, anh dừng lại, ép mình vào gốc cây, tiếp tục quan sát. Có khi anh quỳ trên một đầu gối, xem xét những vết nghi ngờ trên mặt đất. Vừa qua khúc rẻ của một con đường mòn, anh chợt nhìn thấy một họng súng sáng lên dưới ánh trăng, đang sẳn sàng nhã đạn vào đội hình của anh. Trong một thoáng của chớp mắt, anh vùng lên không một chậm trể, vừa bóp cò khầu súng liên thanh của anh, vừa la to xung phong thẳng vào hướng địch, quyết tìm sinh lộ cho đồng đội của mình qua tử lộ của bản thân. Và anh đã trúng đạn vào đầu, tử thương ngay tại chổ, nhưng anh đã cứu được toán viễn thám của anh trong cuộc phục kích. Còn hy sinh nào cao quý hơn!

Hay người chiến binh này là một vị sĩ quan trẻ tuổi mới ra đơn vị tác chiến và lãnh nhiệm vụ xung trận ngay. Anh đã hăng say chạy từ hầm này qua vị trí nọ để tiếp ứng và nâng đở tinh thần cho toán binh sĩ của mình. Sau những tràng đại liên yểm trợ, anh ra lệnh xung phong. Và trong đợt à l’assaut ấy, anh hướng dẫn toán binh sĩ đánh thẳng vào tuyến địch. Miệng anh la to xung phong, xung phong, một tay anh cầm súng colt, tay kia không ngừng vẩy thúc bước tiến quân. Anh là người đầu tiên gục ngả trên cánh đồng khi địch nhắm bắn vào anh vì biết đây là cấp chỉ huy đơn vị. Anh tử thương tại chổ với viên đạn thù bắn vào đầu, trước khi nhìn thấy địch tháo chạy trước sự dũng mãnh của đợt xung phong anh cầm đầu.

Cũng rất có thể người binh sỉ trọng thương này là một quân y tá Nhảy Dù. Anh gan dạ xung phong vào trận địa cùng với đại đội tác chiến anh phục vụ, ngay bên cạnh người đại đội trưởng. Khi nghe tiếng kêu cấp cứu khẩn cấp, không một do dự anh nhào đến phía người binh sỉ vừa bị thương để làm phận sự. Chính lúc người y tá đang tìm cách băng bó cứu sống đồng đội, anh nhận lãnh một viên đạn vào đầu, gục chết ngay trên mình bạn, như thể lấy thân thể của chính mình che chở cho người thương binh.

Các bạn đưa anh đến chổ tôi
Mày còn dựng ngược vuốt cho xuôi
Súng anh tôi gỡ đem về cất
Sửa lại nhung y đẩm máu rồi

Anh bị vết thương bên trái đầu
Chắc rằng anh chết chẳng nghe đau
Lau đi trên mặt bao đất, máu
Băng lại đầu anh băng trắng phau…
Tôi tự hỏi trong giây phút vừa gục ngã, người chiến binh có kịp  kêu lên tiếng “Mẹ Ơi”, như anh từng có thói quen kêu tên Mẹ mỗi khi đau ốm hay gặp rủi ro. Có đủ chăng Anh thì giờ nhớ đến người vợ đang sống bình an ở hậu cứ luôn trông ngóng, chờ đợi anh về. Hay có thấy chăng Anh nụ cười, ánh mắt của người anh thầm yêu mà anh để lại nơi thành phố nhỏ trên bước đường chinh chiến.

Có điều tôi chắc là anh không cảm thấy một đau đớn khi cái chết đến với anh quá nhanh trong bất ngờ. Trong bước tiến xung phóng ấy, anh đang dốc toàn lực chạy nhanh về tuyến địch. Toàn thân anh rướn lên phía trước theo nhịp. Chân anh vững mạnh trong botte de saut. Tim anh đập nhanh đầy hưng phấn. Ngực anh phồng to hít mạnh không khí mang đầy mùi thuốc súng. Mày anh dựng ngược đầy quyết tâm. Mắt anh nở lớn nh́n thẳng, trực diện với nguy hiểm. Tai anh ù điếc vì tiếng hô xung phong của chính mình. Tay anh nắm chặc cây Carbin M2 tự động. Ngón tay anh bóp cò cho ra từng loạt đạn hướng về phía địch. Bổng nhiên, trong một chớp sáng, người anh bổ nhào về phía trước, toàn thân anh rớt mạnh xuống đất, bất động sau một vài co giật nhỏ. Chiếc nón sắt văng nằm bên cạnh, với lổ đạn xuyên phá ở phía trái. Một bên đầu và mặt anh chan hòa với máu Khuôn mặt anh nhăn rúm, mắt anh mở lớn nhìn thẳng vào bầu trời trong xanh; rồi cổ anh nghẹo qua một bên, như muốn hít thở mùi đất mẹ trước khi màn đen sụp xuống vĩnh viễn.

Đưa xác anh không sẳn lá cờ,
Tôi đành tẩm liệm với poncho
Vải dầu che nắng mưa khi trước,
Nay bó thân anh đã cứng đờ

Tôi tiễn anh về một chuyến bay
Mang theo tang tóc chất vơi đầy
Hồn anh theo chuyến tàu bay ấy
Hay vẫn dật dờ phảng phất đây?
Mấy ai từng bước qua trận chiến mà lại không xót xa nhìn thấy những thương binh đổ máu banh ruột, mất tay cụt chân. Có ai không bùi ngùi đau đớn thầm khóc khi đón nhận xác đồng đội tử thương, có khi đã được gói và buộc chặt vào poncho chờ chuyển về tiền trạm, hay oái ăm hơn được đơn vị tạm chôn trên đường di chuyển hay khi căn cứ hoàn toàn bị vây hảm trong nhiều tuần. Trong quá nhiều trường hợp, người y sỉ tiền tuyến cảm thấy bất lực không những vì các vết thương quá nặng, mà còn vì đường tản thương quá dài. Những khi ấy, sự đau xót tăng bội phần, tư tin nghề nghiệp dễ rúng động. Sự hoang mang làm mất đi khả năng suy nghĩ, mấy ai còn được tâm hồn cô đọng và tài thi phú để viết lên bài thơ ai oán hồn tử sĩ như Tiễn Anh

Với tôi, tôi không có sự may mắn, hay nói khác hơn, không có đủ yếu tố thuận lợi để săn sóc tiển biệt tận tay cho chỉ một đồng đội vừa nằm xuống trong trận chiến  đầu đời, mà phải tất bật với hàng chục tử thương. Tôi cũng chưa có đủ chiều dài đời lính chiến hay dạn dày phong sương trong thử thách đúng nghĩa của khói lửa binh đao để diễn tả và cảm nhận cái chết một cách sâu đậm. Và dù tôi có được một thời gian ngắn vừa đủ để thấm hiểu cái tình đồng đội sống chết có nhau, sống chết bên nhau, cùng tiến cùng lùi, cùng chịu pháo với nhau, cùng chia xẻ tâm sự và vui đùa với nhau, tôi nghĩ tôi vẫn không bao giờ có đủ khả năng viết ra một bài thơ khóc đồng đội thấm thía như bài Tiễn Anh. Một bài thơ làm ngay tại mặt trận. Bên cạnh xác bạn.

Khi bài viết này đang vào đoạn kết, tôi nhận được lá thư của “Tường Vi” cho biết bài thơ Tiễn Anh còn có hai đoạn cho phần cuối mà tôi là người đầu tiên được biết. Với sự hân hạnh, tôi xin phép sao chép để bổ túc cho bài thơ Tiễn Anh:

Hậu cứ khi về thăm mộ anh,
Mồ còn mới đất, cỏ chưa xanh,
Sẽ đề lên một bài thơ khóc
Xin chứng cho nhau tấm lòng thành

Dưới ấy xin anh cứ ngậm cười,
Trên này, anh hảy để chúng tôi
Cha già, vợ góa, con côi cút,
Đơn vị chúng mình sẽ chăm nuôi!
Qua hai đoạn cuối này, tôi nhìn thấy tấm lòng thành của “Đích Thân” sẽ về hậu cứ thăm mộ người tử trận cùng gia đình của anh ta. Tôi hy vọng “Đích Thân” đã thực hiện được ý nguyện. Bởi vì dù lòng mong muốn thật nhiều, nhưng đời chinh chiến của người lính khó có được những thời gian riêng tư đó. Tôi mường tượng Thánh  Michael, quan thầy của binh chủng Mũ Đỏ, cùng với các thiên thần đã rước linh hồn người tử trận lên chốn chân hạnh phúc, y như trong đoạn kết của phim truyện nổi tiếng “Ghost”.

      Requiem Aeternam dona eis, Domine, et lux perpetua luceat eis!

       Xin Chúa cho họ được yên nghỉ muôn đời, và ánh sáng ng àn thu soi trên họ

Tôi vô cùng trân quý bài thơ Tiễn Anh của “Đích Thân Tường Vi”. Qua bài thơ, tôi nhìn thấy được con người và tâm hồn của “Tường Vi”. Ở Anh, tôi nhìn thấy cái nghĩa khí của một chiến sĩ, cái lương tâm của một y sĩ tiền tuyến. Ở Anh, tôi thấy được sự độ lượng và lòng vị tha nhân bản. Và ở Anh, tôi thấy được đức độ và tình người trong gian khó hay trong vui đùa, sự hy sinh và lòng tận tụy sẳn sàng chia xẻ khổ đau. Tôi vẫn không hiểu vì đâu Anh có biệt hiệu “Tường Vi”, chử ghép tên của Anh với tên một người đẹp nào chăng! Và đúng như biểu hiệu của hoa Tường Vi là một loại hoa không phô trương, không kiêu sa, nhưng bình dị, thanh tú, đơn sơ bền bỉ, sâu sắc và khiêm tốn, Anh có đầy đủ những đức tính vừa nêu trên.

Vào QYND cuối tháng 5, 1974 cho đến ngày mất nước, tôi chỉ gặp “Đích Thân” một lần duy nhất tại Đà Nẳng khi ra trình diện Sư Đoàn ND và nhận lãnh trách nhiêm làm y sĩ trưởng TĐ1ND ngay trước khi “nhảy” vào vùng trong tháng 8, 1974. Thật sự, lần tiếp xúc quá nhanh chóng đó và ngay cả thời gian phục vụ TĐQY ND quá ngắn không thể nào cho tôi có cơ hội biết về “Đích Thân”. Qua đến hải ngoại, và từ từ sau đó, tôi mới bắt đầu nghe nhắc đến tên của “Đích Thân”, rồi những câu chuyện của những tháng cuối của cuộc chiến, của những ngày cuối trước 30 tháng 4, sự kiện “Đích Thân” cũng trải qua cảnh lao tù CS, khiến tôi càng kính nể “Tường Vi”.

Khi viết lên những dòng chử này, tôi không có tâm trạng của kẻ mong được lên lon, hay chờ đợi một ly rượu Bordeaux, vì không biết chúng mình còn có cơ duyên gặp nhau lần thứ hai. Nhưng tôi chỉ mong nói lên đây lòng kính mến của một đàn em đối với một đàn anh, dù đã gần 40 năm qua. Như một lời tỏ tình, rien n’est trop tard. Tôi phục tư cách của Anh. Tôi phục con người của Anh. Vừa võ vừa văn vừa cả thổi kèn (đủ loại!), lại vừa tu xuất vừa tu đời. Thật đáng nể.

Tôi không mấy am hiểu về nhạc lý dù rất thích nghe nhạc. Bản nhạc phổ theo lời thơ “Tiễn Anh” vẫn chưa có người hát, theo lời của BS. Cổn. Mong một ngày nào đó khi bình an hoàn toàn trở lại trên quê hương VN, chúng ta sẽ cùng hoà tấu bản “Tiễn Anh” . Tôi sẽ cất giọng ngâm ‘Tiễn Anh”, nếu tôi vẫn chưa hát được, hòa cùng với tiếng kèn saxophone và clarinet điêu luyện của đàn anh PG Cổn và của “Đích Thân” Tường Vi. Một bản hoà tấu không cần phải có thêm hai đoạn cuối, như một symphonie inachevée Một gảy đỗ của tuổi xuân trong thời chinh chiến.

Vĩnh Chánh
CA, tháng 10, 2013


**Xin sao lại một phần của lá thư “Đích Thân Tường Vi” gởi, kể lại xuất xứ của biệt hiệu “Tường Vi” và trận chiến đầu đời của Anh. Như một bonus cho bài viết trên.

1/ Tên Tường Vi là do ông Trần Quốc Lịch, tiểu đoàn trưởng TĐ3ND đặt cho mình. Ông cũng đặt tên cho các ĐĐT (đích thân). Thường là lấy tên các ca sĩ : Đ. ÚY. Bùi Quyền là Tố Quyên, Đ. Úy Lê Minh Ngọc là Ngọc Nga, Tr. Úy Trạch là Trang Đài, Tr. Úy Tước là Kim Tước, Tr. Úy Lê Hồng là Hồng Vân, BS. Tường là Tường Vi vv... Mình có nói với ổng là Tường Vi là tên một bà kịch sĩ già, nhưng ổng nói có cô Tường Vi nào là ca sĩ trẻ ?? Mình cũng không ý kiến gì nhưng chết luôn cái tên Tường Vị. Thật ra trong SĐND còn một người nữa tên Tường Vi là ông Nguyễn Văn Tường, chỉ huy trưởng Pháo Binh (Đại Tá bây giờ) Vì thế nên có thêm cái nick nữa là Tường Vi "gà cồ" và Tường Vi "thuốc đỏ".  Lúc sau cuộc HQ vào trong nội có gặp vài ba cô gái Huế mang tên Tường Vi...

2/ Trận đánh đầu tiên của đời bác sĩ nhẩy dù của mình là cuộc Hành Quân "Lam Sơn 54" cuối tháng 5/67. Tháng này nóng bức, gió lào rất khó thở. Mục tiêu cuộc HQ này này là tiễu trừ việt cộng ẩn náu trong vùng Phi Quân Sự (DMZ) phía nnam Sông Bến Hải. Từ sau năm 1954, VNCH tôn trong Hiệp Định Genève 1954 và không hề vi phạm vùng này ngoại trừ Mỹ đã thiết lập hàng rào điện tử gọi là hàng rào Mc Namara. Nhưng chỉ là trò đùa! Tin tức cho biết, vùng này hoàn toàn bị việt cộng chiếm làm căn cứ an toàn cho chúng. QLVNCH với sự chấp thuận của Mỹ đã lập kế hoạch Hành Quân quy mô vào vùng này với toàn bộ LĐ2ND, với Trung Tá Đào Văn Hùng, con hùm xám của ND làm LĐT chỉ huy, gồm các đơn vị tham chiến sau đây : TĐ3ND, TĐ5ND, TĐ9ND? TĐ2PB/ND. Một chi đoàn thiết vận xa. Một trung đoàn bộ binh của SĐ1BB.

TĐ3ND trước cuộc HQ đóng ở thôn Nhan Biều, cạnh thành phố Quảng Trị, bên kia cầu Ái Tử bắc qua sông Thạch Hãn.

Sáng sớm hôm vào vùng, Tiểu Đoàn do thiếu tá Trần Quốc Lịch làm TĐT chỉ huy đã được đoàn xe quân vận chở từ địa điểm đóng quân lên phía bắc. Qua đồi Đông Hà, tới đèo Ba Giốc tức còn cách quận Gio Linh (cầu Hiền Lương) chừng 2km và bắt đầu là limit của DMZ. Đoàn xe ngừng và TĐ3ND đi dọc theo quốc mộ 1 đến cách cầu chừng 1km thì giàn quân hướng về bên trái (phía tây) quốc lộ. Từ Quốc Lộ vào tới ven làng (cũng tên là An Hòa) là ruộng lúa và đường xe lửa cao khoảng hai thước. Từ quốc lộ vào ven làng khoảng 700m, hoàn toàn đồng trống không có chỗ ẩn nấp. Tôi nghĩ, đánh vào từ đây có thể là chết bộn.

Phi pháo bắt đầu tác xạ vào ven làng và dọc đường xe lửa. Trong lúc đó, tiếp nối TĐ3ND là TĐ9ND do Thiếu Tá Huệ làm TĐT tiến quan từ phía nam TĐ3ND dọc theo đường xe lửa và bám được ven làng. Tôi nghĩ  ông Hùng đưa TĐ3ND giàn ở quốc lột làm như muốn băng đồng tiến vào mục tiêu để đánh lừa địch trong lúc TĐ9 đánh từ phía sau lên. Tin chiếm được ven làng vừa loan thì máy báo Thiếu Tá Huệ tử trận (bị bắn tỉa vào đầu). Di tản ông Huệ và TĐ9 án ngữ tại chỗ. TĐ3ND, được lệnh quay lên quốc lộ, đi ngược lại phía đềo Ba Giốc (làm như rút lui). Nhưng thực chất đã bay lên đường xe lửa, xung phong vào ven làng trám chỗ TĐ9ND rồi tiếp tục đánh lên phía Bắc. Địch chống trả dữ dội... Trận chiến kéo dài 5 ngày, năm đêm. cho tới lúc TĐ3 tiến lên đến bờ sông. 2km, đánh từng thước, từng căn nhà... Theo tù binh thì địch đã thay 3 tiểu đoàn quần thảo với TĐ3. Chúng qua sông ban đêm bằng nhiều giây cables căng dưới mặt nước.

Quả thật toàn thể vùng này coi như ở miền bắc. Nhà nào cũng có hình HCM và cờ miền Bắc. Học trò học chương trình miền Bắc, dân xài tiền miền Bắc... Nhà này sang nhà kia đi bằng giao thông hào, hai bên bờ hào hẹp, họ trồng khoai mì cắm chụng đầu nhau nên bay bên trên tưởng là đường mòn trên mặt đất
.
Tường Vi.  Monday, Oct.14, 2013. 

CÓ 1 ĐIỀU CHO TỚI 2015 MÀ BUỒI TÍN VẪN CHƯA HIỂU LÀ:

ĐÉO LỪA ĐƯỢC NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN HẢI NGỌAI - CÁI NẦY MỚI LÀ CÁI NGU ĐẦN LỚN NHỨT CỦA BUỒI TÍN./- Mt68

Nhà báo Bùi Tín và những lời trần tình cuối đời tố đảng CSVN mà ông là cựu đại tá bộ đội “Cụ hồ”(Thay một lời trăng trối gửi các đảng viên CS, các đồng chí cũ)
                                                        

Tác giả: Buồi Tín

Tôi từng ở trong Đảng CS từ tuổi 20, ở trong Đảng 44 năm, 65 tuổi mới thoát Đảng, trở thành người tự do 25 năm nay. Có người bảo là quá chậm, còn chê vui là “sao mà ngu lâu thế!”, nhưng tôi chỉ mỉm cười, tự nhủ mình ngu lâu thật, nhưng vẫn còn sớm hơn hàng triệu đảng viên hiện còn mang thẻ đảng viên CS cuối mùa. Nghĩ mà tội nghiệp cho các đồng chí cũ của tôi quá, sao lại có thể ngu mê, ngủ mê lâu đến vậy.

Năm nay tôi tự làm “cuộc kỷ niệm” độc đáo, về thời điểm cuộc đời tôi, đến năm nay 2015, tính ra đã đạt một nửa đời (20 năm đầu đời cộng với 25 năm ở nước ngoài) là 45 năm không có dính dáng gì đến đảng CS. Tôi đã lãng phí gần nửa đời người –
gần 45 năm cho những hoạt động lầm lỡ, sai trái, tệ hại vì hoàn cảnh khắc nghiệt của lịch sử, cũng do sự u mê, ngu lâu của bản thân mình.

Nhân kỷ niệm riêng độc đáo này, tôi nghĩ đến vô vàn đồng chí CS cũ của tôi, và viết bài này gửi đến các bạn như một buổi nói chuyện cởi mở, tâm huyết, mong được trao đổi rộng rãi với các bạn cũng như với các bạn trẻ trong Đoàn Thanh niên CS mang tên ông Hồ Chí Minh.

Câu chuyện sẽ xoay quanh hai chữ: Giác ngộ.

Giác ngộ là hai chữ tôi nghe rất nhiều lần khi được tuyên truyền về Đảng CS, về chủ nghĩa CS. Các vị đàn anh giải thích con người tốt phải là con người giác ngộ. Giác ngộ có nghĩa là nhận ra lý tưởng cho cuộc đời minh. Tuổi trẻ cần có lý tưởng, hiểu rõ con đường cần chọn, hiểu rõ tổ chức cần tham gia, không bỏ phí cuộc đời minh. Đó là con đường Cộng Sản, dẫn đến độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân, họ rao giảng triền miên như thế, chúng tôi cũng cả tin là thế thật.

Theo học các chương trinh và lớp học cho đảng viên mới, cho cán bộ sơ cấp, trung cấp, cao cấp của đảng, bao giờ giảng viên cũng nhắc đến hai chữ giác ngộ. Học, học nữa, học mãi để nâng cao không ngừng trình độ giác ngộ của mỗi người. Đảng viên phải có trình độ giác ngộ cao hơn quần chúng ngoài đảng. Đảng viên mới luôn được học kỹ tấm gương của anh thanh niên Lý Tự Trọng, với nét nổi bật nhất là giác ngộ CS từ tuổi thiếu niên, rồi biết bao tấm gương của những chiến sỹ CS ưu tú, bất khuất trong các nhà tù thực dân ở Côn Đảo, Sơn La, Lao Bảo, Kon Tum…giác ngộ cách mang cao, nhà tù, máy chém không nao núng, biến nhà tù thành trường học nâng cao trình độ giác ngộ cách mạng, bất khuất, kiên cường.

Trong các bản khai lý lịch cá nhân, mỗi đảng viên thường kể lại bản thân mình được giác ngộ ra sao, được ai giác ngộ, giác ngộ đến mức nào, và luôn kết luận với lời hứa không ngừng học tập, tu luyện, tự phê bình và phê bình để không ngừng nâng cao trinh độ giác ngộ của bản thân.

Tôi kể ra như thế để thấy hai chữ giác ngộ có tác dụng sâu sắc ra sao đối với mỗi đảng viên CS. Hai mươi nhăm năm nay, tôi hồi tưởng lại quãng đời 44 năm là đảng viên CS, theo dõi chặt chẽ thời cuộc hằng ngày trong nước và thế giới, tôi không khỏi cảm thấy chua chát và cay đắng về hai chữ giác ngộ.

Giác ngộ hình như là một chữ Đảng CS mượn của Đạo Phật. “Giác” là nhận thấy, cảm nhận, thấy rõ, “ngộ” là tỉnh ra, nhận ra lẽ phải, chân lý để làm theo.

Sau khi là con người tự do, là nhà báo tự do, kết thân với nhiều nhà báo tự do của thế giới, các nhà báo tự do Pháp, Đức, Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Hoa, Ba Lan, Tiệp…, tôi tìm đọc các kho tư liệu lưu trữ quý ở Paris, Moscow, London, Washington… rồi suy nghĩ bằng cái đầu tỉnh táo của mình, của riêng mình, không sùng bái bất cứ một người hay một học thuyết nào. Từ đó tôi giác ngộ không biết bao nhiêu điều mới mẻ, và lần này tôi thật sự có cảm giác sâu sắc về hạnh phúc tinh thần tiếp cận được ngày càng nhiều sự thật, lẽ phải, chân lý. Tôi đã tự giác ngộ mình.

Nhìn lại 44 năm quá khứ CS của mình, tôi nhận rõ có không ít điều tôi giác ngộ, cho là đúng, thì khốn thay, hầu hết đều là lầm lẫn, ngộ nhận, ảo tưởng, sai lầm và cả tội ác.

Như chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản kiểu mác-xít đều là những học thuyết chủ quan, lầm lẫn, hoàn toàn nguy hại trong thực tế, cổ xuý đấu tranh giai cấp cực đoan và bạo lực, đi đến chiến tranh, khủng bố, đổ máu, hận thù. Giữa thủ đô Washington, tôi cùng anh Cù Huy Hà Vũ đã viếng Tượng đài Kỷ niệm hơn 100 triệu nạn nhân bi thảm của chủ nghĩa CS hiện thực, trong đó có hàng triệu nạn nhân đồng bào Việt ta. Tượng đài nhắn nhủ toàn nhân loại hay cảnh giác với chủ nghĩa CS, tai họa của toàn thế giới.

Tháng 5/2015, Tổng thống Ukraine, một nước cộng sản cũ, đã ký Luật cấm tuyên truyền về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản như trong thời kỳ trong Liên bang Xô Viết từ 1917 đến 1991, coi đó là thời kỳ bi thảm, sai lầm và Tội Ác. Các tượng đài, di tích thời kỳ ấy đều bị phá bỏ. Các sự kiện ấy giúp tôi khẳng định việc thoát đảng CS của tôi là chuẩn xác và giúp tôi thấy Dự thảo văn kiện sẽ đưa ra Đại hội XII sắp đến là lạc hậu, lẩm cẩm và cực kỳ nguy hại cho đất nước, cho nhân dân, cho chính Đảng CS ra sao.

Tôi không thể hiểu vì sao, sau khi Giáo sư Trần Phương, từng là Phó Thủ tướng, là uỷ viên Trung ương Đảng, đã chứng minh rành mạch rằng chủ nghĩa Mác, Lênin, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa CS đều là ảo tưởng sai lầm, nguy hại, hay vì sao sau khi đương kim Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh đã công khai cho rằng: “Cái chủ nghĩa Xã hội và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa làm gì có trong thực tế mà đi tim cho mất công! “, vậy mà Bộ Chính trị vẫn cứ khẳng định trong văn kiện Đại hội XII rằng “kiên định chủ nghĩa Mác, Lênin, kiên định chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa CS là lập trường không thể thay đổi “, một thái độ ngoan cố, cổ hủ, tối tăm, buộc toàn đảng phải đi theo sự lẩm cẩm dai đẳng nguy hại của minh.

Ngay đối với thần tượng Hồ Chí Minh, tuy tôi biết rằng đây là bình phong cố thủ lợi hại của thế lực bảo thủ trong đảng CS do tệ sùng bái cá nhân ăn quá sâu trong quần chúng, tôi vẫn thấy cần và có thể thuyết phục ngày càng đông đảo bà con ta nhận ra sự thật.
Sự thật là ông HCM không phải là thánh thần. Ông là con người với những tốt xấu, mạnh yếu, đúng sai của minh. Ông đã lầm lẫn khi chọn con đường CS, khi lao quá sâu rồi không dám quay lại nữa. Ông đã xa rời lập trường dân tộc, thực hiện lập trường giai cấp cực đoan, đặt ảo tưởng vào giai cấp vô sản quốc tế, và mù quáng đặt niềm tin ở 2 ông Anh lớn Stalin và Mao, 2 con Quỷ Đỏ mà ông cho là “không bao giờ có thể sai”.

Mới đây, có 2 sự kiện minh họa rõ thêm bản chất con người thật HCM. Nhà báo Trần Đĩnh từng gần gũi ông Hồ kể lại ông từng cho rằng không thể giết bà Năm – Cát Hanh Long để mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất, bà lại là ân nhân của đảng CS, – ông còn văn hoa nói: “Không nên đánh phụ nữ dù chỉ bằng một cành hoa”. Vậy mà theo Trần Đĩnh, chính ông Hồ đã viết bản Cáo trạng kết án Bà Năm: “Địa chủ ác ghê”, ký tên CB (của Bác- Bác Hồ) trên báo Nhân Dân của Đảng. Cũng theo Trần Đĩnh, ông Hồ đã cải trang, mang kính râm đích thân đến dự cuộc xử bắn bà Năm.
Vậy ông Hồ là con người thế nào? Nói một đằng làm một nẻo, lá mặt lá trái, tử tế hay không tử tế? đạo đức hay vô đạo đức?

Nhà triết học uyên bác bậc nhất nước ta Trần Đức Thảo trước khi từ giã cõi trần đã kể trong cuốn Những lời trăng trối (do nhà báo Tri Vũ Phan Ngọc Khuê ghi âm) rằng ông đã gặp ông Hồ, quan sát, nghiên cứu sâu về tư tưởng, hành vi, đạo đức của ông Hồ, và đi đến kết luận vững chắc rằng ông Hồ là “con Người muôn mặt, lắm mưu mô, nhiều tham vọng quyền lực, nhiều điều bí hiểm, lắm tên nhiều họ, ẩn hiện khôn lường, lắm vợ, nhiều con, rất phức tạp”, là một “Tào Tháo của muôn đời”.
Ông Trần Đức Thảo cho rằng đảng CS kêu gọi cả nước học tập đạo đức HCM, vậy là muốn biến cả nước thành Tào Tháo hết cả ư!
Thế thật thì nguy cho dân tộc ta quá ! Ý kiến của nhà triết học này thật thỏa đáng.

Tôi có nhiều lý do để quí trọng ông Hồ. Tôi từng gặp ông khá nhiều lần, khi là phóng viên thời sự quốc tế, vào Dinh Chủ tịch dự chiêu đãi ông Lưu Thiếu Kỳ, ông Alexei Kosigyn hay các nhà báo Pháp, Nga, Trung Quốc. Năm 1957 khi ông vào Vinh thăm bộ đội Quân khu IV tôi được giao chuẩn bị bài nói chuyện của ông trước cán bộ quân khu, khen ngợi thành tích giúp dân gặt lúa, chống bão, lụt và diễn tập ở giới tuyến, ông liếc qua bản viết, khen đãi bôi: “Chú văn hay chữ tốt nhỉ!” rồi đút vào túi. Hơn nữa, cha tôi có quan hệ mật thiết với ông Hồ. Ông từng ngỏ lời mời cha tôi ra tham chính từ những ngày đầu Cách mang tháng Tám. Cha tôi lưỡng lự, do quan niệm Nho giáo “Trung thần không theo hai Vua”, nhưng ông Hồ vẫn cử ông Bộ trưởng Tư pháp Vũ Trọng
Khánh, rồi ông Vũ Đình Huỳnh mang thư riêng đến. Chính ông Hồ đề cử cha tôi thay Cụ Nguyễn Văn Tố làm nhiệm vụ Chủ tịch Quốc hội sau khi Cụ Tố bị lính Pháp bắn chết. Nhưng tôi không thể vì những chuyện riêng tư ấy mà làm sai lạc sự đánh giá công bằng, khách quan, chuẩn xác của chính mình.

Không một học thuyết nào, không một cá nhân lãnh tụ nào có thể được đặt trên dân tộc và nhân dân. Do yêu nước thật lòng, thương đồng bào Việt mình thật lòng nên sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, tôi đi đến kết luận dứt khoát, sòng phẳng rằng ông HCM là một nhân vật tiêu cực trong lịch sử VN. Ông có phần trách nhiệm lớn làm cho đất nước lâm vào chiến tranh, do ông chọn con đường CS của Đệ Tam Quốc tế nên mới bị thế giới Dân chủ sớm đặt VN ta trong Chiến lược Be bờ ngăn chặn CNCS (Containment of Communism Strategy). Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do ông dựng lên thật ra không phải là chế độ dân chủ, mà còn là chế độ độc đoán toàn trị do đảng CS độc quyền cai trị, đến nay vẫn chưa có tự do ngôn luận, tự do ứng cử và bầu cử, tự do
xuất nhập cảnh, tự do tôn giáo, không thực hiện chế độ pháp quyền nghiêm minh, đảng CS nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, còn thêm quyền thứ tư là ngôn quyền.
Các tổ chức xã hội dân sự tự phát đang lớn mạnh cùng các nhà dân chủ từ lão thành đến trẻ tuổi đang cùng các cựu đảng viên CS đã thoát đảng tự đặt cho mình nghĩa vụ trước Dân tộc và Lịch Sử chung sức mở ra Kỷ Nguyên Dân chủ và Tự Do cho nước Việt Nam ta.

Tôi tha thiết kêu gọi tất cả các đảng viên CS nhân các cuộc họp Đại hội Đảng các cấp từ chi bộ, đảng bộ cơ sở đến Đại Hội toàn quốc hãy thắp sáng lên ngọn đèn Giác ngộ mới mẻ, manh dạn xoá bỏ những điều giác ngộ cũ kỹ, lạc hậu, giáo điều, lẩm cẩm, mê muội rất có hại, như kiên trì chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa Xã hội và chủ nghĩa Cộng sản mác-xít, sùng bái nhân vật HCM, kiên trì chế độ toàn trị độc đảng lạc lõng, tệ hại.

Đó chính là sự giác ngộ cần thiết cấp bách hiện nay. Trong các cuộc họp bàn, góp ý vào các văn kiện dự thảo, chớ bị lừa dối khi nghe lãnh đạo tuyên truyền rằng các văn kiện đã tiếp thu hàng triệu ý kiến xây dựng, đã được nhất trí cao, không cần bổ sung, sửa chữa gì nhiêu, “do kẻ xấu và bọn phản động xúi giục”. Cần nhận rõ nội dung các văn kiện mới là điều kiện sinh tử của đảng, quan trọng hơn vấn đề nhân sự nhiều, vì vận mệnh đất nước, quyền lợi của toàn dân phụ thuộc vào học thuyết chính trị, vào đường lối đối nội, đối ngoại, vào các quốc sách chính trị, kinh tế tài chính, đối ngoại, xã hội và văn hoá đạo đức. Kiên quyết từ bỏ, gột rửa những điều giác ngộ cũ, nhận rõ đó chỉ là những học thuyết sai
lầm tệ hại trong thực tế cuộc sống, những tà thuyết đã bị thế giới nhận diện, lên án, loại bỏ, ta không có một lý do nào để gắn bó, quyến luyến, tiếc thương.

Xin các bạn chớ sợ mình đơn độc, thiểu số trong các cuộc họp. Chân lý ban đầu bao giờ cũng là thế. Các bạn chính là những hạt kim cương trong khối quặng đen. Hãy dũng cảm thắp lên ngọn đèn giác ngộ mới, tiên tiến. Các bạn sẽ cảm thấy hạnh phúc sâu lắng khi dần dần chính kiến của bạn được lan tỏa trở thành chân lý, sự giác ngộ của số đông.

Buổi tâm sự về hai chữ giác ngộ xin tạm ngừng ở đây, mong có ích trong khêu gợi những ý kiến mới mẻ trong tư duy của các bạn về hiện tình đất nước, về con đường cần chọn cho dân tộc, cho Quê hương, để đất nước phát triển mạnh mẽ trong cuộc sống tự do, bình đẳng, hạnh phúc cho mỗi công dân, mỗi gia đình chung hưởng.

Bùi Tín, VOAs Blog

Tái bútXin đề nghị các mạng blog tự do, lề trái, và bạn đọc có điều kiện nhân bản bài viết này và gửi cho các đảng viên CS quen biết, nhân Đại hội Đảng các cấp thảo luận các văn kiện dự thảo cho Đại Hội Đảng Toàn quốc lần thứ XII đầu năm 2016. Xin đa tạ. B.T

(Hết bài của nhà báo Bùi Tín)

HẢI NGỌAI HÃY MAU VỀ NƯỚC ĂN BỘT NÊM VIỆT CỘNG - VIỆT CỘNG ĂN HÀNG NGÀY CÓ SAO ĐÂU- NGON LẮM THEO LỜI KỂ CỦA KỲ DUYÊN./- Mt68

Xe tải chở hơn 9 tấn xương thối để làm bột nêm

30/10/2015 17:12 GMT+7
TTO - Chiều 30-10, Trạm CSGT Thăng Bình (Phòng CSGT, Công an tỉnh Quảng Nam) cho biết vừa bắt xe tải chở hơn 9 tấn xương động vật bốc mùi hôi thối trên tuyến quốc lộ 1.

   Ảnh: Xe tải chở hơn 9 tấn xương động vật bốc mùi hôi thối - Ảnh: LÊ TRUNG
Ảnh: Xe tải chở hơn 9 tấn xương động vật bốc mùi hôi thối - Ảnh: LÊ TRUNG
Theo đại úy Lê Phan Minh Mẫn, trạm phó trạm CSGT Thăng Bình, khoảng 14g cùng ngày, qua tin báo, tổ tuần tra của trạm đã lệnh dừng xe tải mang BKS 92C-009.22 do tài xế Trần Văn Viên (32 tuổi, trú xã Tam Phú, TP Tam Kỳ, Quảng Nam) điều khiển theo hướng Đà Nẵng - Quảng Ngãi.
Tại thời điểm này, lực lượng CSGT đã phát hiện trên xe chở hơn 9,3 tấn xương động vật (chủ yếu là xương bò, trâu, heo) đã bốc mùi hôi thối, có giòi, xung quanh ruồi bu nhiều. Tài xế Viên không xuất trình được hóa đơn chứng từ chứng minh rõ nguồn gốc số lượng xương trên.
Tài xế Viên khai nhận đã chở thuê số hàng trên cho một người phụ nữ ở TP Đà Nẵng gửi đến một phụ nữ tên Nữ ở tỉnh Quảng Ngãi để đem vào Nam chế biến bột nêm.
Lực lượng CSGT đã lập biên bản hai lỗi là chở quá tải và thải mùi hôi thối vào không khí, rồi bàn giao cho Phòng Cảnh sát môi trường (Công an tỉnh Quảng Nam) để điều tra nguồn gốc số xương động vật thối trên.
LÊ TRUNG

PHẢI CHI CÔ NÀO ĐÂY CHO QUANG LÊ HÓA KIẾP THÀNH BỌ HUNG THÌ HẢI NGỌAI VUI BIẾT MẤY- CHỈ CẦN 1 CHÚT CYANIDE THÔI./- Mt68

Shock: CS Hải ngoại Quang Lê bị gái trẻ lừa đau đớn, kêu than trên “phây"
Click image for larger version Name: 1383097232_Quang-Le-Ca-Si.jpg Views: 0 Size: 15.1 KB ID: 823923  Click image for larger version Name: 365a34dd2064ab9544f19b8380069d63_tnff.jpg Views: 0 Size: 85.0 KB ID: 823924  
Điều khó tin này có vẻ như đã thực sự xảy ra với những dòng trạng thái mới được cập nhật trên trang cá nhân của Quang Lê! Theo đó, chàng ca sĩ này đã chia sẻ những lời đầy tâm trạng ám chỉ cô gái nào đó trên Facebook cá nhân. Anh "oán trách" cô giả dối, chỉ biết coi trọng bề ngoài. Quang Lê còn trách người con gái đó sau lưng thường xuyên "đâm đặt chuyện" về anh.




Đoạn cuối, Quang Lê triết lý cuộc sống tuy dài nhưng qua nhanh vì vậy hãy suy nghĩ trước khi hành động để sau không phải hối tiếc. Những dòng tâm sự của ca sĩ "Đập vỡ cây đàn" nhanh chóng thu hút dư luận, cư dân mạng cho rằng anh đã bị "lừa tình".

Người hâm mộ không ngừng động viên và ủng hộ quan điểm của anh. Đứng trước thông tin này, người trong cuộc vẫn chưa hề có bất cứ thông tin phản hồi chính xác nào.

CÔNG CHÚNG TỐN 32 NGÀN- NHƯNG SAO KHÔNG NÓI RÕ LÀ LÀM ĐƯỢC CÁI GÌ? KẾT QUẢ SAU CÙNG RA SAO? GOM TIỀN CHO LUẬT SƯ ĂN KHƠI KHƠI VẬY SAO ???./- Mt68

On Friday, October 30, 2015 8:59 AM, SaigonNho Legal <saigonnholegal@gmail.com> wrote:


Thưa quý đồng hương,

Vào đầu năm nay 2015, tòa án California đã kết thúc vụ kiện giữa báo Người Việt và hệ thống báo Saigon Nhỏ bằng một bản án bất công.  Một trong các yếu tố quyết định là việc nguyên đơn dùng Bản Lên Tiếng số 3 phản đối báo Người Việt xúc phạm quân, cán, chính VNCH với chữ ký của 151 Cộng Đồng, Hội Đoàn và thân hào, nhân sĩ  để cáo buộc đó là tác phẩm của bà Hoàng Dược Thảo.


Sau khi tòa tuyên bố bản án bất công đối với Saigon Nhỏ, Lữ Anh Thư đã lên tiếng kêu gọi quý Cộng Đồng, Hội Đoàn, Thân Hào, Nhân Sĩ đã ký tên trong Bản Lên Tiếng số 3 để xác nhận chữ ký của mình hầu có thể làm bằng chứng khiếu kiện.   Lữ Anh Thư và Hoàng Minh Quân đã nhận được đề nghị của nhiều nhân sĩ trong cộng đồng để đứng ra lập và điều hành một quỹ pháp lý để giúp hệ thống báo Saigon Nhỏ khiếu kiện.


Nhận thấy việc lập một quỹ pháp lý để đòi công lý và sự thật và với niềm tin đặt vào 151 Cộng đồng, hội đoàn và nhân sĩ, vào ngày 13 tháng Giêng năm 2015, quỹ pháp lý Quốc Gia đã được thành lập và điều hành cho đến nay.  Quỹ Quốc Gia được ghi danh với sở thuế vụ Hoa Kỳ IRS và có giấy phép hoạt động với quy chế bất vụ lợi do chính phủ tiểu bang cung cấp.

Như đã thưa trình với quý vị khi đứng ra đảm nhiệm điều hành quỹ pháp lý, quỹ  này sẽ chỉ được dùng để giúp trang trải chi phí pháp lý; mọi trách nhiệm về chi phí pháp lý đều thuộc hệ thống báo Saigon Nhỏ.

Từ ngày thành lập, Lữ Anh Thư và Hoàng Minh Quân đã báo cáo thường xuyên mọi đóng góp của đồng hương khắp nơi, và chúng tôi đã nhận được sự yểm trợ rất quý báu của gần 200 đồng hương, từ các vị cao niên, các vị tù cải tạo cho đến các bạn trẻ  Chúng tôi rất ngưỡng mộ lập trường quốc gia kiên định của quý vị và xin chân thành cảm tạ sự yểm trợ quý báu quý vị đã dành cho.  Đối với quý vị, chúng tôi sẽ luôn sẵn sàng giải đáp mọi thắc mắc về quỹ pháp lý Quốc Gia.  Với quý vị không hề yểm trợ cho quỹ pháp lý Quốc Gia, chúng tôi xin sẽ miễn trả lời.

Thưa quý vị, dựa vào bản báo cáo cuối cùng vào ngày 30/6, quỹ pháp lý Quốc Gia đã giữ một số tiền là $32,130.69.  Tổng số tiền này đã được gửi đến văn phòng luật sư Pena & Soma, APC vào ngày Thứ Hai, 26/10/2015 để giúp trang trải chi phí khiếu kiện của hệ thống báo Saigon Nhỏ, dựa trên hóa đơn nhận được từ văn phòng luật sư là $59,520.00.  Xin xem hai tài liệu, bản sao của cashier check và hóa đơn pháp lý, đính kèm.  Số tiền khác biệt, $27, 389.31 sẽ do hệ thống báo Saigon Nhỏ chịu trách nhiệm.

Cũng xin thưa thêm, số tiền $32,130.69 là tổng số tiền nhận được từ sự yểm trợ của đồng hương khắp nơi, không khấu trừ bất cứ chi phí nào.  Phí tổn ghi danh thành lập quỹ với chính phủ liên bang và tiểu bang, chi phí ngân hàng hàng tháng cũng như chi phí hộp thư bưu chính đều do Lữ Anh Thư và Hoàng Minh Quân yểm trợ.

Sau khi đã hoàn tất trách nhiệm, quỹ pháp lý Quốc Gia đã chính thức kết thúc vào ngày 28/10/15, sau khi văn phòng luật sự Pena & Soma APC cho biết đã nhận được cashier chêck.  Chương mục ngân hàng của quỹ pháp lý Quốc Gia cũng đã được đóng lại.

Lữ Anh Thư và Hoàng Minh Quân đã hoàn thành trách nhiệm nhận lãnh và xin kính báo cùng quý vị.


Kính chào,
Lữ Anh Thư
Hoàng Minh Quân


Quí vị đồng hương đã yểm trợ, nếu có thắc mắc, xin liên lạc qua địa chỉ email:

RẤT HY VỌNG ÔNG BANKI MOON KHÔNG PHẢI MANKI MUN ./- Mt68

ÔNG BAN KI MOON CÓ GỐC GÁC VIỆT NAM ??? 

 Hình ảnh mạng xã hội lan truyền ông Ban Ki-moon thăm nhà thờ họ Phan Huy ở Việt Nam - Ảnh: Facebook Nguyễn Xuân Diện. Sáng ngày 30/10, mạng xã hội tại Việt Nam loan tin bản tin và bút tích được cho là của ông Ban Ki-moon, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc (LHQ) trong một chuyến ông đến Sài Sơn, xứ Đoài (huyện Quốc Oai, Hà Nội) để thăm nhà thờ họ Phan Huy. 


 Facebook của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện có đăng bức hình ông Ban đang ghi sổ lưu niệm với chú thích: Hình ảnh đầu tiên về việc Ngài Ban Ki moon tại nhà thờ họ Phan ở Quốc Oai, Hà Nội. Ngày ông Ban đến đây là 23/5/2015. Tiến sĩ Diện nói: Ông được người quen làm quan chức địa phương cho hay: ông Ban đã tới "chiêm bái, dâng hương tại nhà thờ dòng họ Phan Huy, và nhận mình là hậu duệ của dòng họ". Ông cũng nói thêm tên Ban Ki-moon theo Hán tự là Phan Cơ Văn. Trả lời phỏng vấn của BBC từ Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện – công tác tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, thuộc Viện hàn lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam cho biết: “Vào lúc sáng sớm hôm nay, một Facebooker ở Mỹ có đưa một nguồn tin là Ngài Ban Ki-moon đã về Việt Nam, trong một chuyến đi âm thầm, và Ngài có đến nhà thờ của dòng họ Phan Huy ở xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội. Ngài đến thăm, dâng hương và có để lại lưu bút.” Ông Nguyễn Xuân Diện cũng cho biết thêm: người chụp bức ảnh có trang lưu bút của ông Ban Ki-moon là học giả Lê Vĩnh Trương. Đồng thời ông nói: “Chúng tôi đã so sánh nét chữ của Ngài cùng với chữ ký, thì đúng là thủ bút của Ngài Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon.” Quan hệ dòng họ : Ông Diện bình luận chuyến thăm “riêng tư” của Tổng thư ký LHQ cho thấy: có thể có "gốc tích và mối quan hệ của dòng họ Phan của Ngài với dòng họ Phan Huy ở Quốc Oai". Nội dung của trang lưu bút của ông Ban Ki-moon tại nhà thờ họ Phan Huy tạm dịch: “Tôi tỏ lòng cung kính sâu sắc khi đến thăm, và thể hiện sự kính trọng sâu sắc đến Nhà thờ họ Phan Huy Chú, và các thành viên khác của gia đình họ Phan. Cảm ơn vì đã gìn giữ ngôi nhà thờ này. Là một thành viên của họ Phan, nay làm chức Tổng thư ký LHQ, tôi cam kết với chính mình sẽ luôn cố gắng đi theo những lời dạy của tổ tiên. Ban Ki-moon Tổng thư ký LHQ" Nói về dòng họ Phan Huy tại Việt Nam, ông Diện nói: "Đây là dòng họ rất lớn khởi phát từ làng Thu Hoạch, tỉnh Hà Tĩnh. Sau đó có một chi rời ra đến xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai nằm ngay dưới chân Chùa Thầy". "Dòng họ này có một số điểm đáng chú ý: Rất nhiều người trong dòng họ đi sứ, như Phan Huy Ích, Phan Huy Chú. Ông Phan Huy Chú đã đi sứ Tàu hai lần, với vai trò Phó sứ, đi Indonesia một lần. Dòng họ này nổi bật về văn chương và khảo cứu như TS Phan Huy Ôn, Phan Huy Vịnh, Phan Huy Chú, Phan Huy Sảng đều là Nhà thơ, nhà Sử học nổi tiếng của Việt Nam. Đặc biệt là Phan Huy Chú, người cùng với Lê Quý Đôn được gọi là hai nhà Đác học trong lịch sử Trung đại Việt Nam". Trích dẫn tư liệu, TS Diện cho biết: "Theo nghiên cứu của TS Ngữ văn Lý Xuân Chung, nghiên cứu về bang giao Việt - Hàn thời xưa thì đoàn sứ bộ của Việt Nam và Cao Ly khi đến Yên Kinh - Trung Hoa thì được sắp xếp ở chung một nhà khách, thì họ có giao lưu với nhau và để lại rất nhiều thơ văn hiện có lưu ở Viện nghiên cứu Hán Nôm cũng như ở Hàn Quốc". "Cũng như cuộc xướng họa của Sứ thần hai nước. Đặc biệt là chuyến đi sứ cầu phong dưới triều Tây Sơn, một trong những người trong đoàn đi sứ là cụ Phan Huy Ích. Và cụ cũng đã xướng họa thơ văn với các Sứ thần Triều Tiên, và để lại thơ văn đến tận bây giờ." Xem thêm bài trên báo Hà Tĩnh về Dòng họ Phan Huy. Ông Ban Ki-moon có gốc gác Việt Nam? - BBC Tiếng Việt