Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Tuesday, 29 September 2015

       Sau lũy tre làng, 
dân è cổ ra nuôi họ hàng nhà quan

Nếu mở một tờ báo lớn hay nhỏ ở VN hiện nay ra xem, ngày nào cũng nhan nhản những chuyện đâm chém, trộm cướp, từ trộm gà trộm chó ở nông thôn đến chuyện đục két sắt, trộm xộc vào nhà chém trước cướp sau ở ngay thành phố.
Chuyện vợ giết chồng, chồng giết vợ rồi đào hố chôn vợ dưới gầm giường, chém loạn xạ cả người hàng xóm.

                                           
                                       Ngô Minh Đức mới 17 tuổi giết cô giáo rồi đốt xác phi tang, đứng trước tòa nhận 18 năm tù

Chuyện buôn bán ma túy, chuyện cậu học sinh Ngô Minh Đức mới 17 tuổi giết cô giáo rồi đốt xác phi tang hoặc giết bạn học rồi qung xác xuống sông hoặc một nhóm thanh niên trẻ măng trộm cướp chỉ để đi nhậu.

                                           
                                                     Nhóm thanh niên chặn xe cướp tài sản để lấy tiền đi nhậu

                                           
                                                                             Nơi xảy ra vụ con giết cha

Thậm chí con  giết cha như bi kịch mới đây, vụ án mạng thương tâm trên xảy ra vào khoảng 12h ngày 20/9 vừa qua, tại thôn Thái Lâm, xã Thái Hòa, huyện Triệu Sơn (Thanh Hóa).  Lê Văn Thạch (SN 1991) đi uống rượu với bạn bè về, thấy ông Lê Văn Thái (SN 1964), bố mình, đang nằm trong buồng. Không nói gì, Thạch bất ngờ dùng dao nhọn (loại dao Thái Lan) lao tới đâm một nhát chí mạng kiến ông này tử vong tại chỗ…

Tất cả chỉ vì đạo đức suy thoái ngay từ lũy tre làng. Người ta nói thời phong kiến đang trở lại, nhưng thực ra thời phong kiến không đến nỗi loạn luân, loạn lạc đến như thế.
Thời nay còn hơn cả thời phong kiến xưa. Ông đại biểu Nguyễn Xuân Tỷ đã từng nói tước Quốc Hội VN: “Có hẳn một “đội ngũ” làm cán bộ có mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả “ngàn tỉ đồng” thì quả là khủng khiếp”. “Khủng khiếp hơn, đó là “cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”.

Cả một bầy sâu trong sau lũy tre làng đang đục khoét, lừa bịp, cướp đất, cướp nhà, cướp của, hà hiếp người nông dân đến tận cùng. Từ ông bí thư, bà chủ tịch xã đến anh thư ký quèn cũng hè nhau trấn lột đến cả cái khố rách của dân. Họ có thể làm được như vậy bởi cả nhà, cả họ kéo nhau ra làm quan. Bố làm chủ tịch, con trưởng phòng tài chính, con gái làm kế toán, con dâu làm thủ quỹ, con rể ký phiếu chi thu… Đến nỗi người làng có câu “Con kính thưa bố, thưa đồng chí chị dâu”. Nghe lộn ruột.

Điều quan trọng hơn, không phải chỉ ở huyện Mỹ Đức mà sau khi báo chí đăng tin này, hàng trăm email của bạn đọc gửi về tòa soạn VietNamNet ngày 16/9 gần như đều đồng thanh: “Ở địa phương tôi cũng thế! ”, và “Ở đâu chẳng vậy”. Nó đã trở nên một hiện tượng quen thuộc và “bình thường” trong cả nước. Có hàng ngàn hàng vạn chuyện như vậy. Nỗi nguy của toàn dân chính là ở đó. Bạn hãy nhìn cảnh “vui vẻ” này:



                                           Ca ho lam quan, nhan tai het dat dung vo 
Hiện nay dư luận đang xôn xao bởi cái tin Bộ máy chính quyền tại huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội – Thủ đô của nước CHXHCN VN– có 13 phòng, ban thì hơn 10 người là anh em, họ hàng với lãnh đạo huyện.

Mỹ Đức là huyện thuần nông ở Hà Nội với nhiều danh lam thắng cảnh như khu danh thắng Hương Sơn, hồ Quan Sơn. Tại đây có nhiều cán bộ UBND huyện là người nhà của bí thư huyện ủy và lãnh đạo UBND huyện.
Theo tố cáo, nhiều cán bộ công tác tại các vị trí quan trọng của UBND huyện có liên quan trực tiếp tới Bí thư Huyện ủy Mỹ Đức Lê Văn Sang (tái đắc cử nhiệm kỳ 2015-2020).
Cụ thể: Bà Lê Thị Vĩnh, Trưởng Phòng Tài chính - Kế hoạch, là cô ông Sang; bà Đỗ Thị Lê Hương, Phó chánh Văn phòng Huyện ủy, là con thông gia với ông Sang; ông Lê Văn Nhiệm, phó ban quản lý dự án, là em họ ông Sang; bà Lê Hải Hồng, Phó Phòng Kinh tế, là chị họ ông Sang; ông Lê Văn Sức, Trưởng Phòng Dân tộc học, gọi ông Sang bằng chú; bà Nguyễn Thị Hòa, Phó Ban Dân số và Kế hoạch hóa gia đình, là em bên họ vợ ông Sang; Nguyễn Thị Duyên, kế toán Phòng Quản lý đô thị, con dâu ông Sang...
Còn ông Nguyễn Văn Hậu, Phó Chủ tịch huyện Mỹ Đức, có 2 con trai là Nguyễn Văn Hùng, Phòng Tài chính - Kế hoạch và Nguyễn Văn Hưng, Phòng Nội vụ của huyện.

Không phải họ hàng, không có cửa vào làm cán bộ xã

Một thí dụ khác như người dân xã Hòa Tâm, huyện Đông Hòa hiện đang râm ran phẫn nộ khi phần lớn cán bộ được tuyển dụng vào các chức danh ở xã đều là họ hàng của ông Đặng Tín, Bí thư Đảng ủy xã Hòa Tâm
Có đến hơn 2/3 cán bộ ở xã là bà con, dòng họ của bí thư Đảng ủy. Nhiều người trong số đó không có trình độ, không có chuyên môn trong khi những người có bằng đại học lại không thể xin được việc ở xã này. Trong số 23 cán bộ xã đã có 18 người là bà con họ Đặng hoặc bà con phía vợ của vị bí thư này. Ngay Ban Thường vụ Đảng ủy 3 người, có 2 người là chú cháu, gồm Bí thư Đặng Tín và Phó Bí thư Đặng Thị Dung. Ông Huỳnh Thanh Nam, một người dân ở xã Hòa Tâm, cho biết:
“Dân xã tôi gọi đây là thời của họ Đặng trị. Không phải người của dòng họ này thì không có cửa vào làm cán bộ xã Hòa Tâm”.
Trong khi 100% cán bộ xã đều không có bằng đại học, một số cán bộ là họ hàng với bí thư xã còn chưa có bằng cấp 3, còn con em người dân ở xã này tốt nghiệp đại học trở về thì không thể xin được việc.
Cụ thể, trường hợp anh Huỳnh Thanh Tú, tốt nghiệp Đại học Quy Nhơn chuyên ngành tài chính kế toán hơn 3 năm nay nhưng hiện phải đi phụ nuôi tôm. Anh Tú nói: “Tôi nghĩ mình về quê với hy vọng làm được một việc gì đó. Vậy mà đã nộp đơn rất nhiều lần vào xã nhưng rồi vẫn không được tuyển dụng. Họ chỉ tuyển bà con có liên quan đến họ Đặng, không quan tâm đến bằng cấp”.

Lần nộp đơn gần đây nhất của anh Tú là khi xã tuyển công an viên nhưng anh cũng bị loại. Trong khi đó, ông Nguyễn Văn Phúc là chồng của phó bí thư Đảng ủy xã và là cháu rể của ông Đặng Tín được tuyển dụng mặc dù ông Phúc chỉ có bằng trung cấp. Về trường hợp tuyển công an viên, ông Lê Văn Hoàng, Chủ tịch UBND xã Hòa Tâm, thừa nhận có nhiều hồ sơ xin tuyển, trong đó có hồ sơ của anh Huỳnh Thanh Tú. Tuy vậy, ông Đặng Tín lại ngụy biện rằng xã tuyển ông Phúc là do chỉ một mình ông này nộp hồ sơ ứng tuyển vào chức danh công an viên. Thế còn đơn của những người như anh Tú thì ông quên luôn. Người dân chỉ còn biết nhún vai phê hai chữ “đểu thật”, đúng là “Thời đại đồ đểu, đểu từ làng đểu ra, đểu từ ngoài đểu vào”.
Một thí dụ cụ thể khác về sự ăn chặn ăn bớt tiền của dân

Trưởng thôn bị tố mạo danh chữ ký để ăn chặn tiền cấp phát cho dân

Thời gian vừa qua, người dân trên địa bàn thôn 8 (thị trấn Ea Kar, huyện Ea Kar, Đắk Lắk) xôn xao trước sự việc vị trưởng thôn này đã nhận tiền kinh phí hỗ trợ người trồng lúa theo nghị định của Chính phủ từ thị trấn để phát cho dân, tuy nhiên trưởng thôn đã lập khống danh sách, mạo danh chữ ký của dân để ăn chặn tiền.

                                          
                                                 Bà Hoàng Thị Tiến - Trưởng thôn 8 cho rằng do mình “nhầm”
                                                 chứ không cố tình ăn chặn tiền của dân

Tóm tắt sự việc, vào tháng 5/2015, chính phủ hỗ trợ người trồng lúa từ năm 2013 đến năm 2015. Tại đây, vào đầu tháng 6/2015 UBND thị trấn Ea Kar đã giao lại số tiền hỗ trợ trên 12.700.000 đồng cho bà Hoàng Thị Tiến - Trưởng thôn 8 để về cấp phát lại cho 44 gia đình.
Theo phản ánh của người dân thôn 8, sau khi bà Tiến nhận tiền về đã không hề thông báo lại cho dân biết và không hề chi trả tiền cho người dân. Sự việc chỉ được phát giác khi một gia đình dân trong thôn biết thông tin từ UBND thị trấn Ea Kar đã cấp phát tiền cho thôn lúc này bà Tiến mới… vội vã tìm gặp các gia đình dân để đưa tiền.
Vậy mà bà Trưởng thôn Hoàng Thị Tiến trơ tráo biện minh: “Cái này có thể trong quá trình lập danh sách tôi bị nhầm lẫn nên phần nhận tiền này tôi đã lỡ ký thay”. Chao ôi, sao mà bà Trưởng thôi “nhầm” khôn thế, nếu không ai phát giác ra bà cho nó “nhầm” luôn, đút tiền vào túi vốn đã đầy ắp của bà.

Chủ tịch xã mượn bằng anh vợ để "thăng quan tiến chức"

Ngày 19-10, thông tin từ UBND huyện Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hóa) cho biết cơ quan này đã ra quyết định cách chức ông Hoàng Văn Đồng, Chủ tịch UBND xã Tiến Lộc với lý do sử dụng bằng giả.

                                          
                       Tấm bằng tốt nghiệp của anh vợ được ông Hoàng Văn Đồng mượn để thăng quan, tiến chức

Chỉ khi nhận được tố cáo của dân, Ủy ban kiểm tra huyện Hậu Lộc mới vào cuộc xác minh và có kết luận ông Đồng không có bằng tốt nghiệp phổ thông 3 mà mượn bằng của anh vợ sửa thành của mình để hợp thức hóa hồ sơ giấy tờ. Ngoài ra, cơ quan này còn phát hiện ông Đồng có nhiều sai phạm trong công tác quản lý, điều hành. Cụ thể, ông Đồng đã lập hồ sơ khống để rút hơn 280 triệu đồng tiền hỗ trợ của Nhà nước và có dấu hiệu buông lỏng quản lý về đất đai.
Thật chuyện bằng cấp của nhiều quan cán ở VN không thể nào tin nổi. Mua bằng, học giùm thi hộ, bằng gì cũng có. Chuyện từ nông thôn đến quan cao cấp là như vậy rồi.

Bà hiệu trưởng ăn chặn tiền của cả học sinh nghèo

Từ những năm 2011, bà Phan Thị Giang - Hiệu trưởng Trường Mầm non xã Ngân Thủy (nay bà Giang đang là Hiệu trưởng Trường Mầm non xã Phú Thủy) đã cùng những người thân tín đang công tác tại trường “ăn chặn” tiền hỗ trợ cho các cháu ở các lớp học vùng cao (mỗi cháu 120.000 đồng/tháng) và tiền lương của các giáo viên dạy hợp đồng tại trường, mỗi giáo viên ít nhất 2 triệu đồng/tháng.

                                          
                                  Trường Mầm non xã Ngân Thủy (huyện Lệ Thủy, Quảng Bình) nhỏ bé như thế này
                                           mà bà hiệu trưởng ăn chặn hàng trăm triệu đồng của học sinh nghèo

Bước đầu, cơ quan chức năng của huyện Lệ Thủy đã xác định bà Phan Thị Giang và các "cộng sự" đã “ăn chặn” hàng trăm triệu đồng.
Lám nhà giáo mà vô lương tâm đến thế thì dạy dỗ con em sẽ trở thành những công dân như thế nào?

Sao hồi này nhiều bà làm quan và tham thế. Thời phong kiến xưa làm gì có mấy cảnh này. Chỉ có thời đại này mới sản xuất ra nhiều phụ nữ “anh hùng” như thế.

Xây cầu 3 tỉ rưỡi chỉ để phục vụ ông chủ tịch xã

Đó là chuyện “ly kỳ” ở xóm 6, xã Sơn Thọ, Hà Tĩnh. Tóm tắt là để có cây cầu qua suối, nhà nước đã bỏ ra số tiền 3 tỉ rưỡi làm chiếc cầu phục vụ dân. Theo lời lãnh đạo Ban Quản Lý Dự án 3 (đại diện chủ đầu tư) lại cho rằng, khảo sát thiết kế với đại diện chính quyền địa phương, số người qua lại vị trí xây dựng cầu Khe Tây là 500 lượt/ngày đêm!

                                           
                                               Cây cầu “hoành tráng” này  chỉ phục vụ gia đình ông chủ tịch xã

Cây cầu mới này phục vụ cho khoảng vài chục gia đình dân. Nhưng thực tế khác hẳn. Cây cầu này nằm gần nhà ông chủ tịch xã Nguyễn Văn Hoàn. Người dân hầu như chẳng ai biết vì muốn đi qua cây cầu mới này phải vượt rừng lội suối không tiện lợi bằng con đường qua cầu mà họ thường đi.
Theo ông Nguyễn Hữu Hòa, từ lâu nay, người dân xóm 6 đều đi bằng đường bê tông dẫn ra cầu Gãy. Còn nếu muốn đi cầu treo thì phải đi đường rừng, lội suối. Ông nói: “Không lẽ chúng tôi lại vượt qua 2 cái khe, băng rừng để đi cầu treo? Trong khi đường bê tông dẫn ra cầu Gãy thì dễ đi hơn nhiều”.

Còn bà Nguyễn Thị Minh nói thẳng: “Tôi chỉ nghe họ bảo làm cầu thì biết vậy thôi, chứ chúng tôi có đi qua cầu đâu? Chúng tôi cũng không ký gì cả".
Đúng là thời đại này nhiều chuyện quái đản. Rất nhiều nơi người dân và học trò phải liều mình đu dây qua suối dữ, vậy mà một cây cầu hơn 3 tỉ làm ra chỉ để cho gia đình ông chủ tịch xã đi thì ngân sách nào chịu cho thấu.

Dân cứ è cổ ra đóng tiền nuôi quan tham. Bãn đọc thử nhận định xem thời đại này là thời đại gì? Có phải là hết thời đại đồ đá, thời đại đồ đồng tàn lụi nay đến“thời đại đồ đểu” không?
Văn Quang

Mt68 (Mauthan68) ỦNG HỘ (TAY KHÔNG) TRƯƠNG MINH HÒA THƯA CHÁNH KHÍ VIỆT RA TÒA NGÃ 3 CHÚ ÍA./- Mt68


TRƯƠNG MINH HÒA TỰ XƯỚNG...

HẮN KHOE TRONG TRẠI CẢI TẠO HẮN CHỈ LO TỰ TRAU DỒI ANH VĂN - NÊN KHI QUA ÚC KHÔNG CẦN HỌC THÊM ANH VĂN - LÀM PHU MỎ, GIA NHẬP MẶT TRẬN HCMINH, BAN ĐÊM THÌ VIẾT SÁCH ANH VĂN- TỰ KHOE 4 CUỐN TRƯỚC THÌ NỮ HÒANG ANH GÁC CHÂN NGỦ MỖI ĐÊM - KHÔNG BIẾT CUỐN 5 NẦY NỮ HÒANG ANH NHÉT CHỖ NÀO CHƯA THẤY TMHÒA NHẮC TỚI - HĂM THƯA CKVIỆT PHẢI NHỚ THƯA NHÉ !! ! ./- Mt68

PHẢN ỨNG VỀ CUỐN SÁCH "A HUMBLE VIETNAMESE WOMAN" SAU 2 TUẦN PHÁT HÀNH


    Cuốn sách thứ 5" A Humble Vietnamese Woman" chỉ phát thành 2 tuần mà đã nhận được nhiều phản ứng từ người Việt, ngoại quốc, chính giới….có thể nói là cuốn sách nầy gây phản ứng mạnh là vì nội dung: vạch trần thủ đoạn bành trướng Trung Cộng qua mặt trận kinh tế, quân sư, kinh tế…và âm mưu khuynh đảo các nước giao thương, kể cả đệ nhứt siêu cường Hoa Kỳ, đưa ra sự lỗi thời, vi phạm nhân quyền của Khổng giáo…. Về lãnh vực người Việt, có nói về tượng khỉ Hồ Chí Minh ở thành phố Newhaven (Anh Quốc), tội ác Vẹm trong thảm sát tết Mậu Thân, pháo kích vào trường Học Cai Lậy, giết học trò…tức là quyển sách nầy tấn công trực tiếp vào thái thú Vẹm và quan thầy Bắc Kinh nên có những phản ứng điên cuồng như thiêu thân và bên cạnh là khích lệ của quí đồng hương còn tâm hồn dân tộc, người Tây Phương.

  • 1-Người Việt:

-Phản ứng của Vẹm: 


nổi bật là Vẹm Thường Satan Trần Hùng Văn, con nuôi là Dracula Phạm Trọng Luật, mauthan68 (thằng Trôi Sông LẠC chợ ở Nam Cali)…mụ má dâm Hoàng Lan Bang…ngoài ra còn có Hà Văn Sơn (tướng cướp truyền thông, dùng báo chí để tống tiền), diễn đàn Ba Căn Cọt với tên khỉ đít đỏ Trường Sơn JB tấn công tác giả bằng bài viết và vẽ hình…

-Im lặng: dù trước đây họ rất" nhạy bén" tung hô phét phẩm" Bên Thắng Cuộc" của văn Vẹm Huy Đức, bất chấp thầy của tên San Hô chê là Bên Thắng Cuộc chỉ trúng có 33%. Mặc dù Trương Minh Hòa viết sách bằng Anh ngữ, chớ không phải viết bằng tiếng Thượng, nhưng không thấy những Dogtor tốt nghiệp ơ Mỹ như Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Ngọc Bích, Trần Hữu Dũng Đinh Xuân Quân…nói năng gì, đúng là trí cứt chồn lùi, nay đã tỏ mặt.

-Các cơ quan truyền thông" Tu Hú" như VOA, RFA, BBC, SBS…thì vẫn" thanh tâm trường im lặng, chắc là họ ngại" thần tượng Hồ Chí Minh sụp đổ và đụng tới Trung Cộng. Hãy nhìn những cơ quan truyền thông nào" im lặng có chính sách" là biết chúng là ai, nằm phía bên nào, khỏi cần dùng kiếng chiếu yêu cũng biết.

  • 2-Người Tây Phương: thì có những tác giả như Roger Canfiled, cựu phó chủ bút tờ The West Australian, một số cựu chiến binh Úc hân hoan, chúc mùng và ủng hộ.


  • 3-Phía công quyền Tây Phương.
*** BÔI BỎ VÌ NHẢM NHÍ .../- Mt68


Trương minh Hòa
29.09.2015

Cảnh sát Nhật áp giải phi công Ðặng Xuân Hợp (cháu Đặng xuân Khu, tức Trường Chinh)

alt“…Trước sự kiện này, blogger có nickname “Minh T” nhận xét: “Chắc chắn những nhân viên của tòa đại sứ là đảng viên. Họ phải hiểu rằng Ðảng cộng sản là đại diện của giai cấp công nhân nhưng họ đã không đứng về phía công nhân mà còn sỉ nhục người ta. Họ là nhân viên ngoại giao nhưng quên mất nghiệp đoàn lao động là biểu tượng của nhân dân lao động Nhật…”
 
 
dangxuanhop01
Cảnh sát Nhật áp giải phi công Ðặng Xuân Hợp
(cháu Đặng xuân Khu, tức Trường Chinh) .
(Hình: Kyodo News)
Công đoàn tỉnh Aichi dọa kiện đại sứ quán Việt Nam tại Nhật
Sau nhiều vụ việc làm ăn bẩn thỉu, gian lận, trộm cắp của cơ quan chức quyền Việt Nam tại Nhật như:
– Vụ PCI (một tập đoàn chuyên cung cấp dịch vụ tư vấn của Nhật phải đưa hối lộ để được trúng thầu các dự án thực hiện bằng tiền viện trợ của Nhật tại Việt Nam)
– Vụ nhân viên, tiếp viên và phi công của Vietnam Airlines, tổ chức trộm cắp hàng hóa trong các trung tâm mua sắm tại Nhật để vận chuyển hàng gian về Việt Nam tiêu thụ
– Vụ “tu nghiệp sinh” Việt Nam bị các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của chính quyền CSVN bóc lột như nô lệ
– Vụ lãnh sự quán VN tại Osaka tại Nhật bán passport Việt Nam cho tất cả mọi người
– Vụ đại sứ quán VN bị một công đoàn địa phương tại Nhật kiện.
Trên nhiều diễn đàn điện tử tại Nhật, nhiều người Nhật cực đoan đang kêu gọi tẩy chay người VN, đuổi hết người Việt về nước, cắt vĩnh viễn các khoản viện trợ cho Việt Nam.
Có người so sánh viện trợ cho Việt Nam uổng hơn là đổ tiền vào… cống, bởi tiền thuế của họ đang được dùng để nuôi bọn “giòi bọ” ở Việt Nam …
Cảnh sát Nhật khám xét toàn bộ các văn phòng đại diện của Vietnam Airlines tại Nhật.
Người phát ngôn của Vietnam Airlines vừa chính thức xác nhận: Tất cả các văn phòng đại diện của Vietnam Airlines tại Nhật vừa bị cảnh sát Nhật lục soát để tìm kiếm hàng hóa bị ăn cắp.
Vụ tai tiếng liên quan tới Vietnam Airlines bắt đầu từ ngày 10 tháng 8, sau khi cảnh sát quận Kumamoto bắt quả tang hai “tu nghiệp sinh” người VN đang ăn cắp hàng hóa của một trung tâm mua sắm. Hai “tu nghiệp sinh” này đến Nhật để làm việc cho một công ty xây dựng hồi tháng 2. Mỗi tháng họ nhận được 70,000 Yen nhưng bị các doanh nghiệp “xuất khẩu lao động” của phỉ quyền VN “trấn lột” 50,000 Yen/tháng nên không đủ sống và được một nhân viên của Vietnam Airlines tại Nhật tuyển mộ để đi ăn cắp các mỹ phẩm…

Báo chí Nhật cho biết, cảnh sát Nhật đã xác định có tới 85 người VN liên quan tới tổ chức trộm cắp này. Ðồng thời, cảnh sát Nhật tuyên bố, việc đưa “tu nghiệp sinh” VN sang làm việc có dấu hiệu buôn người nên đã đề nghị cảnh sát hình sự quốc tế hợp tác điều tra.
dangxuanhop02
Xấu hổ, phi công Ðặng Xuân Hợp tự cởi áo,
che mặt tránh ống kính của báo giới Nhật
khi bị bắt giữ tại phi trường Fukuoka
(Hình: Kyodo News)
Hôm 17 tháng 12, cảnh sát Nhật đã bắt quả tang Ðặng Xuân Hợp, phi công của Vietnam Airlines đang vận chuyển hàng gian về Việt Nam. Cảnh sát xác định có khoảng 50 nhân viên (bao gồm cả phi công lẫn tiếp viên hàng không) của Vietnam Airlines dính líu đến tổ chức trộm cắp và vận chuyển hàng gian đang bị điều tra. Vì các nghi can cùng cho biết những Văn phòng đại diện của Vietnam Airlines tại Nhật là nơi cất giấu hàng trộm cắp nên một đợt khám xét những văn phòng này vừa được thực hiện.
Theo báo điện tử VnExpress, người phát ngôn của Vietnam Airlines chỉ xác nhận cảnh sát Nhật đã khám xét các văn phòng của hãng này và đã “làm việc” với một số tiếp viên, phi công. Phía Vietnam Airlines từ chối bình luận trước khi giới hữu trách ở Nhật công bố thông tin.
“Tu nghiệp sinh” XHCNVN tại Nhật – một loại nô lệ
Vụ bê bối liên quan tới Vietnam Airlines tại Nhật không chỉ giới hạn trong phạm vi tổ chức-vận chuyển-tiêu thụ hàng ăn cắp. Báo chí Nhật và một số du học sinh tại Nhật đã cung cấp thêm nhiều thông tin để lý giải vì sao “tu nghiệp sinh” VN tại Nhật phải tham gia vào các tổ chức trộm cắp do nhân viên Vietnam Airlines tổ chức.
Về lý thuyết, “tu nghiệp sinh” là một dạng học nghề nên dù sang Nhật để làm thuê song không được trả lương mà chỉ được hưởng “trợ cấp”. Ðó là sự bất công thứ nhất mà người nghèo ở Việt Nam phải gánh chịu khi chập nhận sang Nhật làm thuê.
Bất công thứ hai là muốn được đi sang Nhật làm “tu nghiệp sinh”, những người nghèo ở Việt Nam phải đóng khoảng 1 triệu Yen/người cho Sovilaco hoặc Suleco (những doanh nghiệp quốc doanh, độc quyền xuất khẩu lao động sang Nhật). Vì sợ “tu nghiệp sinh” bỏ trốn, Nguyễn Gia Liêm – đại diện của Bộ Lao Ðộng Thương Binh Xã Hội VN được cử sang Nhật để “giám sát, bảo vệ quyền lợi cho người lao động Việt Nam” đã yêu cầu giới chủ ở Nhật thu giữ passport, thẻ ngoại kiều của “tu nghiệp sinh” nhằm bảo vệ quyền lợi cho Sovilaco hoặc Suleco. Ða số chủ hãng của Nhật chỉ dám giữ passport của “tu nghiệp sinh” vì thu giữ giấy tờ tùy thân của người khác là vi phạm luật pháp của Nhật.
Gần như tất cả “tu nghiệp sinh” tại Nhật phải làm việc khoảng 20 tiếng/ngày và 7 ngày/tuần nhưng chỉ được trả “trợ cấp” 70,000 Yen/tháng (khoản thu nhập chỉ bằng một nửa mức thu nhập tối thiểu) vì là… “tu nghiệp sinh”. Bất công thứ ba là 50% khoản trợ cấp 70,000 Yen/tháng đó được giới chủ Nhật chuyển vào tài khoản của Sovilaco hoặc Suleco tại Nhật, để Sovilaco hoặc Suleco khống chế “tu nghiệp sinh”: Một mặt ngăn ngừa họ bỏ trốn do lao động cực nhọc, lương thấp, mặt khác để hưởng tiền lời. Nếu “tu nghiệp sinh” đau bệnh, xin trở về nguyên quán sớm hoặc có lỗi lầm dẫn tới bị sa thải trước khi “hợp đồng gửi đi làm tu nghiệp sinh” hết hạn, Sovilaco hoặc Suleco sẽ tịch thu toàn bộ số tiền 50% đã giữ mỗi tháng để “bồi thường các thiệt hại do vi phạm hợp đồng”. Ðó là chưa kể, mỗi tháng, một tu nghiệp sinh còn phải trả cho Sovilaco hoặc Suleco 10,000 Yen “quản lý phí”.
Một blogger người Việt có nickname là “Minh T”, sống tại Nhật khẳng định: “Với 25,000 Yen còn lại, phải dành 10,000 Yen trả tiền nhà/tháng, 15,000 Yen để trả các loại chi phí ăn, uống, điện, nước, ga,… gái không làm điếm, trai không ăn cắp cho bọn Hàng không VN mới là chuyện lạ vì họ đã bị bóc lột đến tận xương tủy. Mong sao cảnh sát Nhật phối hợp với ICPO (Hình cảnh Quốc tế), điều tra, hốt hết bọn bất lương trong các đường dây buôn người của chính phủ VN như họ đã tuyên bố”.
Viên chức ngoại giao VN tại Nhật: Bẩn thỉu và thô lỗ
Bên cạnh các scandal “PCI”, “Vietnam Airlines”, “Tu nghiệp sinh”,… các viên chức ngoại giao của VN tại Nhật cũng đang tạo ra vô số tai tiếng.
Từ dư luận, báo chí Nhật đã cử phóng viên điều tra việc các cơ quan ngoại giao của VN tại Nhật bán giấy tờ giả. Một phóng viên Nhật đã thử liên lạc và cuối cùng mua được một passport từ lãnh sự quán VN tại Osaka với giá chỉ có 30,000 Yen, dù anh ta hoàn toàn không phải là công dân VN và không biết nói tiếng Việt.
Ngoài vụ “Quốc tịch VN trị giá 30,000 Yen”, tòa đại sứ VN tại Tokyo cũng đang nằm trong tầm ngắm do bị nghi chuyên chứng thực các bằng lái xe giả (để người sử dụng được miễn thi lấy bằng lái xe tại Nhật). Sở Cảnh sát Tokyo đã ban hành một chỉ thị, theo đó, những giấy tờ do tòa đại sứ VN chứng thực chỉ có giá trị sử dụng sau khi đã được Bộ Ngoại Giao Nhật chứng thực lại, rằng con dấu của Tòa Ðại sứ VN trên giấy tờ là dấu… thực.
Vụ mới nhất, đang khiến dân chúng Nhật phẫn nộ đó là việc một viên chức của tòa đại sứ VN tại Nhật lăng mạ công đoàn tỉnh Aichi (Airoren), một chi nhánh thuộc Tổng Công Ðoàn Nhật. Trước đó, Airoren đã nhận sự ủy thác của tổ chức công đoàn đại diện cho các công nhân làm việc cho Toyota, yêu cầu bảo vệ quyền lợi cho 64 “tu nghiệp sinh” VN, vốn đang bị Sovilaco, Suleco của phía chính quyền VN và các công ty trung gian ở Nhật bóc lột.
Sau khi Airoren liên lạc với 64 “tu nghiệp sinh” này để làm các thủ thục thay mặt họ nộp đơn kiện đòi quyền lợi, cả 64 người đã bị viên chức của tòa đại sứ VN tại Nhật gọi lên “làm việc”. Trong buổi “làm việc” đó, “tu nghiệp sinh” được yêu cầu chấm dứt quan hệ với Airoren bởi Airoren là một “tổ chức phi pháp” hoạt động như “Mafia”. Ai đó trong số 64 “tu nghiệp sinh” đã bí mật ghi âm và sau khi băng ghi âm được chuyển cho Airoren, Airoren đã gửi văn bản phản kháng cho chính quyền VN, yêu cầu thủ tướng VN phải xin lỗi, nếu không, họ sẽ kiện đại sứ quán VN ra tòa án Nhật.
Trước sự kiện này, blogger có nickname “Minh T” nhận xét: “Chắc chắn những nhân viên của tòa đại sứ là đảng viên. Họ phải hiểu rằng Ðảng cộng sản là đại diện của giai cấp công nhân nhưng họ đã không đứng về phía công nhân mà còn sỉ nhục người ta. Họ là nhân viên ngoại giao nhưng quên mất nghiệp đoàn lao động là biểu tượng của nhân dân lao động Nhật”. Cũng blogger “Minh T” kể tiếp: “Tanaka Masao – một cảnh sát viên của tỉnh Gunma đang tham gia điều tra vụ hàng không VN, có cha từng là cố vấn quân sự cao cấp của Việt Minh, nói như thế này với báo chí Nhật: Tôi không thể tưởng tưởng và hiểu được, tại sao một dân tộc có 4,000 năm văn hiến, dũng cảm, lại để thế hệ con cháu phải đi làm nô lệ ở xứ người như vậy”.

 Nguyễn Hoàng Huy Đức                                                                                             


Monday, 28 September 2015

HÒANG PHỦ NGỌC TƯỜNG SẮP CHẦU DIÊM VƯƠNG

NHÌN VÀO TẤM HÌNH THẤY CÓ ĐỨA MẶC ÁO TÀU - ĐÚNG LÀ VIỆT NEM KHÓAI MẶC ÁO XÁ XẨU./- Mt68


KHI ĐỒ TỂ LÂM BỆNH NẶNG
 
Bảng Đỏ
Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường – một nhà văn nổi tiếng của chế độ cộng sản hiện đã lâm bệnh nặng do bị tai biến hô hấp.
Báo Tuổi Trẻ dẫn lời gia đình cho hay, tình trạng bệnh của ông Tường hiện nay là rất nặng.
Cơn tai biến đã xảy ra chỉ 1 tuần sau khi ông này được gia đình đưa từ Sài Gòn về lại Huế - nơi ông Tường bị cáo buộc là thủ phạm gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng do quân đội cộng sản gây ra vào dịp tết Mậu Thân năm 1968.
Thảm sát Mậu Thân 1968 tại Huế
Cùng thời điểm này, Tạp Chí Văn Chương Da Màu đã cho đăng một bài phỏng vấn đặc biệt, trong đó Hoàng Phủ Ngọc Tường phủ nhận vai trò liên quan trong cuộc thảm sát Mậu Thân 68.
“Mình không có giết ai trong chiến tranh” ông Tường khẳng định trong bài phỏng vấn vừa được công bố sau 7 năm.
Tại thời điểm quân đội cộng sản ra tay thảm sát dân thường vô tội, Hoàng Phủ Ngọc Tường nói rằng ông ta không có mặt tại Huế:
“Họ dự định sau khi vụ Mậu Thân thành công thì sẽ đưa chúng tôi về ra mắt công chúng. Nhưng cuộc tiến công bị chặn lại vì phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa phản kích dữ dội quá…”
“Vì việc không thành nên tôi không được đưa về Huế để ra mắt quần chúng.”


Đồ Tể Hoàng Phủ Ngọc Tường
Đối với người dân Huế, đặc biệt là người nhà của những nạn nhân vô tội, đây chỉ là những lời dối trá và chạy tội của Hoàng Phủ Ngọc Tường lúc cuối đời.
Đồ tể
Trong một cuộc phỏng vấn vào ngày 29/2/1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường lại khẳng định đã có mặt tại Huế vào tết Mậu Thân năm 1968.
Video cho thấy, ông này nhiều lần nhấn mạnh vai trò của mình như một ‘chứng nhân’ tham gia công việc ‘thi hành bản án cách mạng’ đối với những thường dân.
Ông này còn kể rõ tường tận như: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”
Sau 25 ngày kinh hoàng, quân đội cộng sản đã dùng nhiều biện pháp man rợ để giết hại khoảng 6 ngàn người dân Huế vô tội.
Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng em trai mình là Hoàng Phủ Ngọc Phan, cùng với Nguyễn Đắc Xuân… bị coi là những đồ tể gây ra vụ thảm sát.
Tuy nhiên, trong cuộc phỏng vấn đăng trên Da Màu, ông Tường lại nói rằng bản thân ông này ‘không chứng kiến’ những vụ giết người tại Huế:
“Còn những vụ giết người hàng loạt, tôi chỉ nghe nói chứ không chứng kiến, nhưng tôi biết là mình không thể hành động như thế” , Hoàng Phủ Ngọc Tường nói.
Chối tội
Sau năm 1975, cũng như nhiều nhân vật đi theo ‘mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam’, Hoàng Phủ Ngọc Tường gần như bị chế độ CSVN loại bỏ. Đến năm 1987 thì ông này lại làm đơn xin gia nhập đảng.
Trong bài phỏng vấn, ông Tường nói rằng đã ‘thôi sinh hoạt đảng’ 3 năm sau đó – tức năm 1990, nhưng không có giấy tờ chính thức.
Năm 1989, ông này bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người và phải ngồi xe lăn. Sau đó, được gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống.
Trong suốt những năm tháng cuối đời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã luôn tìm cách chạy tội cho cá nhân và đồng bọn của ông ta trong cuộc thảm sát Mậu Thân 68. Trong khi đó, chế độ CSVN vẫn tiếp tục dùng sự kiện này để ăn mừng trên xác những người dân vô tội, thậm chí chúng còn trơ trẽn dùng cả bộ máy tuyên truyền nhằm đổ lỗi cho ‘Mỹ-Nguỵ’ đã gây ra cuộc thảm sát.
Ở đời, con người thì ai cũng có lúc sẽ phải trở về với cát bụi. Tuy nhiên, sẽ thật là một điều bất công nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường được chết.
Không phải vì hận thù hay muốn trả thù, cá nhân tôi cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường và đồng bọn ông ta cần phải sống cho đến ngày công lý được thực thi.
Ngược lại, muốn được nhắm mắt ra đi, thì đây là cơ hội cuối cùng để Hoàng Phủ Ngọc Tường nói ra sự thật, xem như một lời tạ lỗi cuối cùng trước khi lìa đời.
Bảng Đỏ
 

Robert Funseth, ân nhân của HO VNCH, qua đời

 
Ngọc Lan/Người Việt

ARLINGTON, Virginia (NV) - “Ông Funseth vừa mất sáng nay, Thứ Sáu, 25 Tháng Mười, lúc 10 giờ 20 tại một bệnh viện ở Arlington, Virginia.”
Bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Gia Ðình Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, nói với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, sau khi chứng kiến linh mục làm lễ và thi hài ông Robert Funseth được đưa đến nhà quàn.
Ông Robert Funseth, từng là phát ngôn nhân cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thời gian cuộc chiến Việt Nam diễn ra. Đặc biệt, khi đang làm phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, ông là người “được trao trách nhiệm đàm phán với giới lãnh đạo Hà Nội để yêu cầu thả tù chính trị và cho họ cùng với gia đình sang Hoa Kỳ định cư, cũng như cho những người thuộc diện con lai và thân nhân của những người Việt đang sinh sống tại Mỹ được rời Việt Nam theo chương trình Ra Ði Có Trật Tự (ODP),” theo lời ông nói với đài RFA vào năm 2005.
Ông Robert Funseth (ngồi), phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, và các nhân viên tại Việt Nam, vận động thả tù nhân chính trị. (Hình: vietnam.ttu.edu)
Với nỗ lực không ngừng của ông Funseth, sau bảy năm, kể từ năm 1982, chính phủ Hoa Kỳ và nhà cầm quyền Việt Nam đã ký xong bản thỏa hiệp vào ngày 30 Tháng Bảy, 1989, đồng ý đưa 300,000 tù nhân chính trị, những cựu quân nhân VNCH cùng gia đình họ, đến định cư tại Hoa Kỳ.
***
Nói về nguyên nhân cái chết của ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho biết: “Ông mất chính là vì bệnh già. Khi vợ ông qua đời hồi đầu năm 2015, thì ông cũng yếu dần, chứ không bệnh gì. Vợ chồng ông Funseth chỉ có một con trai nhưng đã mất lâu rồi.”
“Nơi ông Funseth ở có những người hàng xóm rất tốt. Hai, ba ngày họ không thấy ông ra lấy báo trước cửa, nên gọi cảnh sát và báo cho người em trai ông ở New York biết. Khi cảnh sát đến nhà mới biết ông té nằm trên sàn cả ba ngày rồi, vậy mà ông vẫn sống. Người ta mang ông vô nhà thương,” bà Thơ cho biết.
Cũng theo lời bà, "tôi có hứa với ông bà Funseth là tôi sẽ thay mặt cho tất cả tù nhân chính trị chăm sóc ông bà khi họ đau ốm.”
Thế nên ngay sau khi từ Việt Nam trở về, được em trai ông Funseth báo tin cho biết, bà Khúc Minh Thơ đã có mặt mỗi ngày tại bệnh viện nơi ông nằm điều trị.
Bà cũng cho biết, hôm Thứ Ba vừa qua, ông Funseth đã yêu cầu bệnh viện tháo ống trợ thở để ông được “ra đi tự nhiên.”
Nói về ông Funseth, bà Khúc Minh Thơ cho rằng, “Tất cả tù nhân chính trị và cả bản thân tôi đều coi ông Funseth như một người ơn mà không cách gì trả ơn nổi. Đó là người đã cứu rỗi linh hồn những người tù nhân chính trị, những người HO.”
Bà Thơ kể, “Tôi vẫn nhớ khi tôi vào nhà thương thăm ông, ông tỉnh lại nói chuyện với tôi suốt hai tiếng đồng hồ. Ông cứ sợ không gặp lại tôi. Tôi có nói ông không hề cô độc, dù vợ con ông đã mất, nhưng ông vẫn còn tụi tôi, tụi tôi hứa sẽ chăm sóc cho ông.”
“Ông nhắc, ông nhớ, ông nói thao thao về những kỷ niệm, về những người tù nhân chính trị. Ông thương họ lắm. Cho đến lúc gần chết mà ông còn nói với tôi câu như thế này: Nếu bà không để tâm, thì cho phép tôi để hình tôi trên bàn thờ của bà.”
“Vì sao biết không? Vì ông muốn khi nào những người tù chính trị ngày xưa có đến thăm tôi thì cũng sẽ gặp ông luôn. Vì ông đâu có gia đình. Ông chỉ có người em và hai người cháu lại không ở gần đây,” bà Khúc Minh Thơ giải thích tâm nguyện của ông.
Cũng theo bà Thơ, “Trong nhà ông Funseth, dưới tầng hầm, có một thư viện, nơi đó ông cất giữ rất nhiều món quà của những người tù nhân chính trị, của những hội đoàn tặng cho ông.”
Bà kể thêm, “Trong nhà thương, ông nhắc đủ thứ, nhớ kỹ đủ thứ. Nhớ lại những lúc tôi làm việc với ông. Nhắc lại lúc ông đi ký thỏa hiệp, ông về kể với tôi khi sang Việt Nam ký thì bên Việt Nam đâu có đồng ý tất cả các điều khoản đưa ra, vẫn còn một số điểm họ không chịu ký. Trong khi những người trong phái đoàn cảm thấy như vậy là cũng được, thì ông lại luôn nhớ câu tôi dặn trước khi ông rời khỏi Bộ Ngoại Giao để lên máy bay đi, là 'ông làm bằng cách nào tôi không biết, nhưng ông phải yêu cầu họ ký hết các thỏa hiệp đó mới được.' Tôi nói là nói vậy thôi chứ làm sao buộc ông như vậy được. Mọi chuyện khó khăn lắm chứ. Vậy mà đêm đó, ông kể, 1 giờ khuya ông ngồi dậy đọc kinh cầu nguyện cho Việt Cộng ký hết những điều khoản còn lại để cho gia đình tù nhân chính trị được yên lòng.”
“Sáng hôm sau, khi phái đoàn của ông đi ăn sáng trước khi chuẩn bị trở về Mỹ, thì ông Vũ Khoan là người đại diện phía Việt Nam ký thỏa hiệp đó tiến đến nơi ông Funseth, và nói phía Việt Nam đồng ý ký hết những điều khoản còn lại. Ông nói ông mừng hết lớn. Khi ông đến phi trường Bangkok gọi về cho bà Funseth, kêu bà báo tin cho tôi biết,” bà Thơ tiếp tục kể về người ơn của chương trình H.O.
Bà Khúc Minh Thơ còn cho biết, ông Funseth, trong những ngày nằm bệnh viện, đã nói nguyện vọng muốn được bà Thơ “làm cho ông một buổi Funseth's Day.”
“Tôi nói ông cố gắng khỏe lại thì sẽ tổ chức, dự định cũng đúng vào dịp 30 Tháng Bảy. Giờ ông đi rồi, nhưng tôi nghĩ tôi cũng sẽ làm ngày đó cho ông, trong một hình thức nào đó,” bà nói.
Chia sẻ về cảm xúc của một người thân thiết với ông từ 30 năm qua, bà Khúc Minh Thơ cho biết, “Ông ra đi tôi buồn nhưng cũng vui cho ông, vì ông vẫn thường nói ông nhớ vợ ông, con ông, ông cứ mơ thấy họ. Thì thôi coi như ông đã được đoàn tụ với vợ con mình. Nhớ về ông, điều cảm động nhất với tôi là việc ông cầu nguyện trong đêm để cho tất cả các điều khoản trong bản thỏa hiệp được ký hết.”

---
Liên lạc tác giả: Ngoclan@nguoi-viet.com

      NGƯỜI KHÔNG NHẬN TỘI : KHA TƯ GIÁO
       

Tôi biết anh khi cùng đến trình diện “ học tập ” tại trường Pétrus Ký ngày 24 tháng 6 năm 1975. Anh sinh năm 1942, tốt nghiệp khóa 1 Chánh Trị Kinh Doanh Đà Lạt. Sau khi ra trường anh bị động viên khóa 9/68 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, rồi được biệt phái làm việc ở Kỹ Thương Ngân Hàng, tức Ngân hàng Quân Đội ở đường Nguyễn Huệ, Sài Gòn. Anh là một thanh niên khỏe mạnh, to cao, chưa lập gia đình. Vì cận thị nên lúc nào cũng mang kính trắng. Trông anh ai cũng dễ nhận ra anh là một trí thức giàu tiềm năng, nhiều nghị lực. Anh có người chú ruột là kỹ sư làm Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ của chế độ Cộng Sản Bắc Việt. Sở dĩ tôi biết nhiều về anh là do khi bị đưa vào trại tập trung ở Thành Ông Năm , Hốc Môn, cũng như khi ra Phú Quốc tôi lúc nào cũng được “ biên chế ” cùng tổ , đội với anh, chỗ nằm cũng sát bên anh, vì người ta căn cứ theo thứ tự A, B, C của tên mỗi người khi lập danh sách. Tên anh rất lạ và dễ nhớ :” KHA TƯ GIÁO".
Khi mới vào trại tập trung, ngoài giờ lao động khổ nhọc, các “ cải tạo viên “ còn phải học mười (10) bài chánh trị. Sau mỗi bài học là những buổi thảo luận trong tổ, đội. Mỗi ngưởi phải viết “ bài thu họach ” những gì mình “ tiếp thu ” được sau những bài giảng của cán bộ tuyên truyền, được gọi là giáo viên. Sau bài học đầu tiên đề tài thảo luận đưa ra là mọi người phải “ liên hệ bản thân ”, xác định mình là người có tội với nhân dân, với “ cách mạng ”. Người cầm súng thì giết bao nhiêu cách mạng trong từng trận đánh. Bác sĩ thì chữa trị cho binh sĩ lành bệnh để đánh phá cách mạng như thế nào. Người làm ngân hàng ( như tôi và anh Kha Tư Giáo ) thì có tội phục vụ cho nền tài chánh, dùng tiền nuôi dưỡng chiến tranh. Cảnh sát thì đàn áp nhân dân ra làm sao, vân vân…Trại của chúng tôi đa số là sĩ quan biệt phái. Họ nói biệt phái là phái làm công tác đặc biệt. Thí dụ giáo viên biệt phái là những người lãnh lương hai đầu, một bên là quân đội, một bên là giáo dục, được phái về dạy học để đánh rớt học sinh, buộc học sinh phải đi lính, biệt phái ngân hàng là sĩ quan được đưa về làm công tác ngân hàng, kiếm thêm thu nhập cho người lính để có thêm sức cầm súng. Do đó, sĩ quan biệt phái là những người có tội rất nặng với cách mạng và nhân dân hơn những người khác. Anh KTG thì cho rằng anh và các bạn anh không ai là người có tội. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa cầm súng chống lại bộ đội Bắc Việt và quân nằm vùng là để tự vệ mà không hề chống lại nhân dân, đồng bào ruột thịt trong Nam cũng như ngoài Bắc. Riêng bản thân anh, sanh ra và lớn lên ở miền Nam, học hành và làm công tác chuyên môn ngân hàng để sống và phục vụ cho đất nước thì sao gọi là có tội. Lập trường anh Giáo không đáp ứng yêu cầu của Việt Cộng. Đó là tấn thảm kịch của anh. Anh bị bắt làm kiểm điểm liên tục còn những người khác thì cũng bị bắt phải “ giúp đỡ ” anh nhìn thấy được tội lỗi của mình để được cách mạng và nhân dân khoan hồng. Càng kiểm điểm anh càng thấy mình là người vô tội. Bài viết lúc đầu thì dài, về sau chỉ còn bốn chữ thật to chiếm hết trang giấy :
” TÔI KHÔNG CÓ TỘI”
Việt Cộng hỏi, anh trả lời những gì cần phải nói anh nói hết rồi. Bạn bè trong đội thấy anh giữ lập trường như thế thì rất nguy hiểm cho anh mà bạn bè cũng khổ. Vì sau giờ lao động cực nhọc đáng lẽ được nghỉ ngơi, lại phải ngồi kiểm điểm với anh đến mỏi mệt, chán chường. Nhiều người trách anh sao không biết “ nín thở qua sông ”, họ khuyên anh cứ viết đại vào giấy là mình có tội một cách chung chung, miễn là thực tế không làm gì hại nước, hại dân là được. Anh bảo như vậy là mắc lừa Cộng Sản và lương tâm không cho phép.
Khi tất cả cán bộ ở trại đều bất lực thì cán bộ cao cấp từ Sài Gòn được cử xuống. Những người này tỏ ta có tay nghề hơn. Nghe đâu là sư trưởng VĐG từng là thành viên của phái đoàn đàm phán Bắc Việt tham dự hội nghị Paris năm 1973, cùng với một đại tá chánh ủy sư đoàn ( ?). Họ không trấn áp anh mà tỏ ra lắng nghe và chịu đối thọai. Anh Giáo đã chứng tỏ bản lĩnh của mình bằng những câu hỏi đặt ra mà họ không trả lời được. Ngược lại, anh còn phản công, vạch trần tội ác của họ. Từ vai một người tù, một tội nhân anh trờ thành một công tố viên trước tòa, luận tội Việt Cộng. Bằng một giọng đầm ấm và trầm tĩnh, anh Giáo nói :
- Chúng tôi là những người sanh ra và lớn lên ở miền Nam. Nhờ hạt gạo của đồng bào miền Nam nuôi lớn và trưởng thành từ nền văn hóa và giáo dục khoa học, nhân bản và khai phóng. Chúng tôi có lý tưởng của chúng tôi cũng như các anh có lý tưởng của các anh. Lý tưởng của các anh là dùng bạo lực để lật đổ chánh phủ hợp hiến, hợp pháp Việt Nam Cộng Hòa để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản. Lý tưởng của chúng tôi là bảo vệ Tự Do, Dân Chủ. Các anh từ miền Bắc vào xâm lăng miền Nam, buộc lòng dân quân miền Nam phải cầm súng tự vệ. Chúng tôi có câu “ giặc đến nhà đàn bà phải đánh”. Chẳng lẽ một công dân cầm súng chống lại kẻ thù để bảo vệ bà con mình, gia đình mình, tổ quốc mình thì có tội ?
Hai cán bộ Việt Cộng im lặng, chỉ gật gật cái đầu. Một lúc sau, viên đại tá chính ủy lên tiếng :
- Các anh chỉ là tay sai đế quốc Mỹ. Ở đâu có Mỹ, có bom đạn Mỹ thì chúng tôi đánh. Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một…
Anh Giáo ngắt lời :
- Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi, chớ gì ? Các anh chỉ biết lặp lại mà không biết gì về quốc tế công pháp. Tôi nhắc lại, hiệp định Genève năm 1954 mà các anh đã ký ngày 20/7/1954 quy định từ vĩ tuyến 17 trở ra là nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, từ vĩ tuyến 17 trở vào là nước Việt Nam Cộng Hòa của chúng tôi, được Liên Hiệp Quốc và quốc tế công nhận.
Tên sư trưởng phản ứng :
- Các anh là công cụ Đế quốc Mỹ âm mưu chia cắt vĩnh viễn đất nước. Còn chúng tôi đánh Mỹ là để thống nhất đất nước, mang lại Độc Lập cho Tổ Quốc, Tự Do, Hạnh Phúc cho đồng bào.
Anh KTG : - Nên nhớ, các anh mới là người âm mưu cùng thực dân Pháp chia cắt đất nước bằng hiệp định Genève năm 1954. Chúng tôi không hề ký vào hiệp định đó. Đồng minh chúng tôi không phải chỉ có Mỹ mà có Đại Hàn, Phi Luật Tân, Tân Tây Lan, Úc Đại Lợi và tất cả quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Các anh mới là tay sai Liên Xô và Trung Cộng. Chủ nghĩa Cộng Sản chủ trương bành trướng, xâm lược, nhuộm đỏ toàn thế giới chớ không riêng gì Việt Nam.
Tên sư trưởng :
- Người Cộng Sản làm cách mạng là để giải phóng các dân tộc khỏi áp bức, bóc lột mà đầu sỏ là đế quốc Mỹ để mang lại công bằng xã hội, ấm no, hạnh phúc cho mọi người.
- Tôi thiết nghĩ những người cần được giải phóng là nhân dân miền Bắc đang thiếu Tự Do, Dân Chủ, đang sống đời lầm than cơ cực. Chúng tôi không cần các anh giải phóng.
Bất ngờ, tên đại tá chánh ủy đập tay xuống bàn cái rầm. Ly nước trước mặt hắn ngã đổ tung tóe :
- Quân phản động !
Anh KTG vẫn giữ điềm tĩnh và im lặng. Thời gian trôi qua nặng nề. Tên sư trưởng dịu giọng :
- Các anh ôm chân đế quốc, bị đầu độc bởi vật chất xa hoa và văn hóa đồi trụy của chủ nghĩa tư bản thối tha nên không nhìn thấy tội lỗi của mình.
Bằng một giọng ôn tồn mà cương quyết, anh Giáo trả lời :
- Chúng tôi là người Việt quốc gia, không theo chủ nghĩa nào cả. Chủ nghĩa chỉ là lý thuyết, là giáo điều do con người đặt ra để phục vụ cho những mục tiêu chánh trị nhất định trong một giai đọan lịch sử nhất định. Đến lúc nào đó nó sẽ bị đào thải do không theo kịp sự tiến hóa không ngừng của xã hội. Còn chủ nghĩa Cộng Sản chỉ là chủ nghĩa ngoại lai, duy vật và sai lầm khi chủ trương vô gia đình, vô tôn giáo, vô tổ quốc, đi ngược lại bản chất con người, ngược lại truyền thống duy tâm , trọng đạo và nền văn hóa cổ truyền của người Việt. Nó quá tàn nhẫn và sai lầm khi chủ trương đấu tranh giai cấp bằng chuyên chính vô sản. Tôi cho rằng nó sẽ không tồn tại lâu dài.
Thấy hai tên Việt Cộng vẫn im lặng, anh Giáo nói tiếp :
- Trong thời gian Tết Mậu Thân năm 1968 các anh đã đồng ý hưu chiến để đồng bào an tâm vui đón ba ngày lễ cổ truyền của dân tộc. Vậy mà các anh lại tấn công vào các đô thị miền Nam, gieo rắc kinh hoàng, chết chóc cho người dân vô tội. Khi các anh rút lui khỏi Huế lại nhẫn tâm sát hại, chôn sống hàng ngàn dân lành. Các anh ký hiệp định Paris năm 1973 để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam. Lúc nào các anh cũng giương cao ngọn cờ chống Mỹ cứu nước như chánh nghĩa đấu tranh của mình, nhưng khi Mỹ rút đi rồi thì các anh dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam. Vậy mà các anh nói được là hòa bình, hòa giải dân tộc !
Nói tới đây anh Giáo ngừng lại trong giây phút, rồi bất ngờ anh chỉ tay về phía hai cán bộ Việt Cộng :
- Vậy thì giữa chúng tôi và các anh, ai mới là người có tội ?
Bấy giờ thì hai tên Việt Cộng giận run, nét mặt đanh lại, xám ngắt. Chúng không trả lời câu hỏi của anh Giáo mà đuổi anh ra khỏi phòng.
Bằng đủ mọi cách đấu tranh buộc anh Giáo nhận tội không kết quả, bọn Việt Cộng để cho phong trào lắng xuống. Ai cũng hồi hộp, lo lắng, không biết điều gì sẽ xảy đến cho anh KTG. Việt Cộng có thể mang anh ra bắn công khai về tội phản động như họ đã từng làm ở trại này mà anh Giáo cũng như mọi người trong trại đều biết. Thời gian này anh Giáo cho biết các em của anh đi học tập cùng đợt đã được ông chú bảo lãnh về hết, trong đó có người em ở trại kế bên, chỉ cách nhau một hàng rào dây thép gai. Ngày hai anh em chia tay nhau bên hàng rào, anh Giáo dặn em hãy về lo cho mẹ và gia đình và đừng lo gì cho anh, chắc là lâu lắm anh mới được về. Phần anh vẫn vui vẻ sống cùng anh em với tinh thần bình thản, một đôi khi còn tiếu lâm, khôi hài nữa. Anh thường hay hát những bài như Hà Nội, Niềm tin và Hy vọng, Anh lính quân bưu vui tính…Tôi hỏi sao không hát những bản nhạc của mình, anh nói hãy cố giữ nội quy của họ để họ không nói được mình. Anh Giáo là thế, lúc nào cũng tự trọng. Mười bài học chánh trị rồi cũng qua. Chúng tôi có nhiều giờ rảnh hơn vì lúc này không còn phải ngồi hàng giờ để thảo luận và “ giúp đỡ ” anh Giáo nữa. Nghĩ lại,Việt Cộng dùng từ cũng ngộ, như từ “giúp đỡ ” được dùng trong trường hợp này. Chúng tôi xét thấy chẳng có ai đủ tư cách để giúp đỡ anh Giáo, ngược lại rất nể trọng anh và được anh giúp đỡ rất nhiều .
Vào những buổi chiều sau khi cơm nước xong, anh và tôi thường hay đi bách bộ dưới tàng những cây sứ có hoa màu trắng, tỏa hương thơm ngát. Chúng tôi thường trao đổi với nhau về chuyện ngân hàng và những vấn đề mà cả hai cùng quan tâm.Thấy anh nhặt rất nhiều bông sứ, tôi hỏi :
- Chi vậy ? - Mai mốt về tặng người yêu- Anh trả lời. - Chắc là cô bạn rất thích hoa này ? - Vì nó trắng tinh khiết và thơm dịu dàng. - Sợ tới chừng đó nó sẽ phai màu đi – Tôi e ngại. - Không sao. Dù hoa có phai màu nhưng chắc sẽ giữ được tình cảm của mình trong đó ! - Anh lãng mạn quá – Tôi nhận xét.
Anh Giáo cười để lộ hai cái răng khểnh và một đồng tiền dưới khóe miệng bên phải. Trông anh dễ thương hơn bao giờ hết !
Có lần trong lúc trò chuyện anh nói hiện nay anh ghét nhất là cái khẩu hiệu “ Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội ”. Bản thân chủ nghĩa xã hội không ra gì thì làm sao mà yêu cho được. Theo anh Giáo, yêu nước là yêu nước. Không thể và không nên gán ghép nước Việt Nam với bất cứ một chủ nghĩa nào, dù là Chủ Nghĩa Xã Hội, Cộng Sản hay Tư Bản. Nếu những chủ nghĩa này sụp đổ thì không yêu nước nữa hay sao ?
2.
Đêm 21 tháng 6 năm 1976 chúng tôi được chở bằng Motolova đến Tân Cảng xuống tàu há mồm 503 ra Phú Quốc. Chuyến đi thật kinh hoàng như địa ngục trần gian mà con người có thể tưởng tượng được. Hàng ngàn người bị dồn trên con tàu đóng kín cửa. Ăn uống, ói mửa, tiểu tiện chỉ có một chỗ, cho vào thùng phuy. Khi tàu cập bến Phú Quốc có nhiều tù nhân bị xỉu, những người còn lại đều kiệt sức. Tù nhân phải dùng chính những thùng phuy này để nấu cháo ăn ngay trong đêm. Cho tới hôm nay là ba muơi bốn năm, hình ảnh hãi hùng này vẫn còn ám ảnh tôi. Tôi ghi vào nhật ký :
Đau đớn thay những linh hồn cháy lửa
Suốt đêm ngày tắm rửa với mồ hôi
Với cao tay quờ quạng chút hơi người
Miệng gào thét những âm thanh khiếp đảm
Ở Phú Quốc ngoài việc trồng rau để “ cải thiện ” bửa ăn, việc lên rừng đốn củi là công tác thường xuyên và cực nhọc nhất. Nhiều anh em nghe lời Việt Cộng, đi tìm vác những cây to để chứng tỏ mình là người “ tiến bộ ”. Anh Giáo thì không. Lúc nào anh cũng ung dung, tự tại. Anh chỉ tìm vác những cây vừa sức mình. Khi thấy cần phải nghỉ thì anh dừng lại nghỉ, mặc cho bọn vệ binh ôm súng canh giữ cho tới lúc hết mệt anh mới đứng lên đi tiếp. Anh khuyên anh em phải biết giữ gìn sức khỏe vì thời gian “ học tập” hãy còn dài. Giờ đây ngồi ghi lại những dòng này, cảnh tượng của năm nào lại hiện ra trước mặt: Trong một buổi chiều ảm đạm, gió thổi ào ào. Một bên là biển, một bên là rừng. Đoàn tù cả trăm người, dài hơn cây số, xếp hàng đôi, áo quần lôi thôi lếch thếch, vai vác những thân cây nặng nề, mồ hôi lã chã, chậm chạp lê bước trên những con dốc ngoằng ngoèo, trơn trợt. Nhiều người té lên té xuống. Hai bên và phía sau là những tên vệ binh ôm súng AK thúc giục.Tới đầu một con dốc, anh Giáo đặt thân cây xuống, ngồi trên đó nghỉ mệt. Khi một ngừời không đi nổi thì cả đoàn phải dừng lại chờ. Điều này bọn cai tù Việt Cộng không muốn. Tên chỉ huy đến chỗ anh Giáo bắt phải đứng lên đi tiếp Anh Giáo trả lời mệt quá nên phải nghỉ. Tên cán bộ không chịu. Thế là cuộc đấu trí bắt đầu. Đến khi đuối lý, tên cán bộ rút khẩu K 54 ra khỏi vỏ. Cả đoàn tù hồi hộp. Cả khu rừng như nín thở. Tên cán bộ đến bên anh , nghiêm sắc mặt :
- Anh có đứng lên không ? - Tôi còn mệt. - Anh không chấp hành lệnh phải không ? - Tôi đã nói là tôi còn mệt. Bao giờ hết mệt tôi sẽ đi.
Tên cán bộ hướng khẩu K54 về phía anh Giáo :
- Anh không đứng lên tôi bắn.
Anh Giáo vẫn ngồi bất động, lạnh lùng đáp :
- Anh cứ bắn đi !
Tên cán bộ Việt Cộng bóp cò. Hai tiếng nổ chát chúa vang động cả khu rừng. Một bầy chim bay lên tán lọan, kêu quang quác…Nhiều người tù gục xuống, ôm ngực :
- Lạy Chúa tôi.
Sự việc diễn ra chỉ trong vài giây ngắn ngủi nhưng đã nói lên tất cả nét bi hùng của cuộc chiến sau “ Hòa bình ” mà kẻ có vũ khí trong tay đã thua, đồng thời tính chất anh hùng của người chiến sĩ Quân lực Việt Nam Cộng Hòa trong hoàn cảnh sa cơ thất thế vẫn sáng ngời, chói lọi. Người tù đã thắng!
Không biết vì sợ hãi hay run tay mà đường đạn nhắm vào anh Giáo đã đi trượt một bên tai, làm bể nát phần thân cây mà anh Giáo đang ngồi trên đó. Tôi thì sửng sốt, bàng hoàng, tưởng như mình vừa trải qua một giấc mơ, vừa chứng kiến một cảnh chỉ có thể xảy ra trên màn ảnh, truyền hình !
Anh Giáo thường hay kể truyện Tam Quốc, truyện Thần Điêu Đại Hiệp, truyện Tây Du Ký cho chúng tôi nghe. Hết truyện Tàu đến truyện tiếu lâm, làm cho đời sống tù tội bớt căng thẳng. Sau một thời gian ở Phú Quốc, Việt Cộng nhiều lần cho họp liên trại, phát động lại chiến dịch đấu tranh bắt anh Giáo nhận tội, nhưng rồi không thể nào lay chuyển được tư tưởng của anh.
Riêng đám tù binh chúng tôi bấy giờ rất thoải mái chớ không còn căng thẳng như lúc ở Hốc Môn. Người ta chỉ tổ chức đấu tranh với anh Giáo cho có lệ. Những lần như thế chúng tôi khỏi phải lên rừng vác củi, được nghỉ lao động, lại thích hơn.
Nhưng thời khắc định mệnh đã tới ! Một hôm trong lúc xếp hàng điểm danh cuối ngày, cán bộ Việt Cộng ra lệnh cho anh Giáo phải bỏ kính ra. Anh trình bày vì cận thị từ lâu nên không bỏ ra được. Chỉ chờ có thế, chúng ra lệnh nhốt anh vào cũi sắt làm bằng dây thép gai, thứ mà chúng ta hay gọi là chuồng cọp, diện tích rất hẹp, nằm không được mà ngồi cũng không được. Chuồng cọp để giữa trời , không có mái che mưa che nắng. Ngay từ năm 1930, khi thành lập đảng Cộng Sản, họ đã có chính sách “ Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc bốc tận rễ ”. Anh KTG là một trí thức mặc dầu thua trận vẫn cương quyết giữ vững lập trường chống Cộng và quyết tâm bảo vệ chánh nghĩa Quốc Gia thì sẽ bị tiêu diệt là điều khó tránh khỏi. Tiến sĩ toán ĐXH, cá nhân tôi và biết bao anh em khác cùng đội cũng mang kính trắng giống như anh KTG mà không hề bị làm khó dễ. Điều này được giải thích như thế nào đây ? Mỗi ngày Việt Cộng chỉ cho anh Giáo nửa chén cơm lạt. Anh lại tuyệt thực để đấu tranh và phản đối chính sách dã man và sự trả thù hèn hạ của chúng. Ngoài tuyệt thực, anh Giáo còn dùng lời ca, tiếng hát để làm vũ khí đấu tranh. Bài hát anh Giáo sử dụng là bài Đêm Nguyện Cầu, trong đó có những câu:

“ Con tim chân chính không bao giờ biết đến nói dối…
Nghẹn ngào cho non nước tôi, trăm ngàn ưu phiền…”
Có lẽ trong giờ phút đó, anh Giáo biết rằng mình đã ở vào thế hoàn toàn tuyệt vọng và chỉ có thể nguyện cầu mà thôi. Đây là lần đầu tiên mà có lẽ cũng là duy nhất trong đời, tôi nhìn thấy một người hát bằng tất cả linh hồn như vậy. Anh Giáo thường cất tiếng hát của mình vào những đêm khuya thanh vắng. Giọng hát của anh bay vào không gian, vào từng lán, trại, có lúc thật cảm xúc, có lúc nghe rợn người như âm thanh phát ra từ cõi chết. Nhiều người nghe anh hát thì ngủ không được, nhiều người đang ngủ thì bừng tỉnh dậy và khóc nức nở. 
Bài Đêm Nguyện Cầu là của Lê- Minh- Bằng. Anh Bằng năm nay vẫn còn sống ở Mỹ, chắc anh không ngờ sáng tác của anh lại có người sử dụng trong hoàn cảnh đắng cay như vậy. Giờ đây mỗi lần nghe lại bài hát này tôi không cầm được nước mắt vì nhớ tới người bạn của mình. Lời ca của anh Giáo rồi thì cũng yếu dần và tôi không nhớ cho đến khi nào thì tắt lịm. Anh bị xuống sức rất nhanh. Từ một thanh niên khỏe mạnh cao hơn một thước bảy, chỉ trong vòng một tháng anh chỉ còn là một bộ xương, duy có đôi mắt là còn tinh anh, sáng ngời, khiến cho nhiều người không dám nhìn thẳng vào mắt anh, nhất là cán bộ Việt Cộng.
Ngày 20 tháng 6 năm 1977 Việt Cộng cho di chuyển một số tù nhân từ Phú Quốc về Long Giao, Long Khánh. Anh Giáo di chuyển đợt đầu, tôi thì đi đợt kế tiếp. Trong lúc di chuyển, anh Giáo bị còng tay, lúc nào cũng có vệ binh ôm súng canh chừng. Ngay khi về tới Long Giao tôi vội đi tìm anh Giáo. Khi gặp được anh thì anh đang hấp hối. Tôi nắm tay anh, bàn tay lạnh ngắt Lời nói cuối cùng anh nhắn lại với tôi là khi nào được về thì nói tất cả sự thật cho gia đình anh biết. Tôi hỏi địa chỉ ở đâu thì anh thều thào trong hơi thở rất yếu. Hình như anh thốt ra hai chữ Huyền Trân. Sau này khi đi lao động tình cờ tôi gặp được nấm mộ của anh, phủ đầy cỏ dại ở một góc sân banh hoang vắng. Trên mộ có tấm bảng gỗ nhỏ có đề tên anh, nét chữ nhạt nhòa.
3.
Tôi được tha về cuối năm 1977. Mặc dầu phải đương đầu với biết bao khó khăn trong đời sống hàng ngày đối với một người vừa mới ra tù, tôi vẫn để tâm đi tìm gia đình anh Kha Tư Giáo. Theo quyết định ra trại, tôi chỉ được tạm trú ở nhà một tháng, sau đó phải chịu sự điều động của địa phương đi “Kinh Tế Mới ”. Nhờ may mắn, tôi xin được giấy chứng nhận là thuộc diện sử dụng vào công việc của thành phố. Từ đó tôi xin được việc làm và dần dần ổn định được đời sống. Tôi đã tìm khắp mọi nẻo đường, từ Sài Gòn vô Chợ Lớn, Bà Chiểu, Phú Nhuận, nhất là đường Huyền Trân Công Chúa, đường có hai chữ Huyền Trân mà tôi đã nghe anh Giáo thốt ra trong lúc lâm chung. Nhưng con đường này toàn là biệt thự, có vẻ là công sở hơn là nhà tư nhân. Tôi cứ đi qua, đi lại con đường này không biết bao nhiêu lần. Khi tôi vào hỏi đều nhận được cái lắc đầu của chủ nhà. Cũng có lần tôi cầu may lên Thành Ủy Sài Gòn ở đường Trương Định, quận Ba để hỏi thăm về đồng chí KVC, Bộ Trưởng Bộ Công Nghiệp Nhẹ nhưng tôi không qua được cổng bảo vệ vì khi được hỏi quan hệ như thế nào với đồng chí bộ trưởng thì tôi trả lời quanh co mà không chứng minh được gì cả.

Trong suốt hai mươi năm ở SàiGòn không tìm được gia đình anh Giáo thì tôi được người em vợ bảo lãnh đi Mỹ, định cư ở Chicago vào cuối năm 1997. Sang Mỹ tôi vẫn tìm cách thực hiện nguyện vọng cuối cùng của người bạn quá cố. Tôi cố gắng dò hỏi trong số bạn bè mà tôi liên lạc được xem có ai biết gia đình họ Kha ở đâu không. Một lần nữa tôi không có tin vui. Điều tôi làm được là cuối tháng 12 năm 2001 tôi viết lại câu chuyện về anh Kha Tư Giáo, đặt tựa đề Người Không Nhận Tội và gửi cho tờ Việt Báo ở California, mục “ Viết về nước Mỹ ”. Tôi chọn mục này vì đây là diễn đàn có số độc giả rất lớn, ở khắp nơi trên thế giới, biết đâu gia đình anh Giáo sẽ đọc được. Hy vọng của tôi rất mong manh vì bài của tôi không nói gì về nước Mỹ mà chỉ viết về người bạn của mình đã ngã gục trong tù Cộng Sản. Vậy mà không ngờ, bài viết cũng được chọn đăng và được phổ biến trên hệ thống toàn cầu. Tôi lại hồi hộp chờ đợi bài viết của mình đến với gia đình anh KTG. Ngày 23 tháng 1 năm 2002 tôi nhận được email của Ban Chủ Nhiệm Việt Báo chuyển cho cùng với bức điện thư của anh KTC, em của anh KTG gửi từ Autin, Texas, báo tin gia đình anh đã đọc được bài viết của tôi. Bức điện thư ngắn ngủi nhưng đã gây cho tôi một cảm xúc mạnh, một niềm vui lớn. Bạn hãy tưởng tượng cũng biết được là tôi hạnh phúc như thế nào khi nỗi niềm đã được giải tỏa, khi ước mơ 25 năm đã thực hiện được, nhất là ước mơ đó là của người quá cố, nên có tính cách linh thiêng.
 
Chiều chủ nhật 27 tháng 1 năm 2002, tôi đang ở nhà thì nhận được điện thọai từ Texas :
- Hello ! Tôi là KHT, em ruột anh Kha Tư Giáo. Xin lỗi có phải…
- Tôi, Duy Nhân đây.
- Chào anh Duy Nhân ! Có phải anh là tác gỉa bài viết Người Không Nhân Tội ?
- Tôi đây chị.
- Hân hạnh được nói chuyện với anh. Gia đình tôi đọc được bài viết của anh trên Internet. Không ngờ sự thật như vậy..
Tới đây thì tiếng nói đứt quãng. Tôi nghe được cả sự nghẹn ngào bên kia đầu dây. Chị HT quá xúc động. Tôi cũng vậy. Tôi giữ được im lặng trong một phút, rồi nói :
- Đây là giây phút mà tôi chờ đợi suốt hai mươi lăm năm nay.
- Gia đình chúng tôi cám ơn anh nhiều lắm.
- Tôi chỉ làm nhiệm vụ đối với anh Giáo, một người bạn của tôi.
- Bài viết của anh nói lên được nhiều điều. Qua đó, gia đình tôi hiểu rõ sự thật về anh Giáo, về Cộng Sản mà nhiều cán bộ cao cấp theo Cộng Sản suốt đời cũng không hiểu được.

Tôi lại nghe tiếng nức nở bên kia đầu dây. Chị HT lại khóc. Sau đó chị kể cho tôi nghe những sự kiện tiếp theo cái chết của anh Giáo. Chín tháng sau khi anh Giáo chết thì Việt Cộng mới báo tin về gia đình, Họ có hoàn lại cho gia đình một số vật dụng cá nhân, trong đó có cặp kính trắng. Bây giờ tới phiên tôi đau lòng và xót xa khi nghe nhắc tới cặp kính trắng. Đó chứng tích của sự trả thù hèn mọn và một chính sách sai lầm đối với trí thức, đối với người thuộc chế độ cũ mà tôi là nhân chứng từ đầu tới cuối. Khi gia đình nhận được giấy báo tử của anh Giáo thì mẹ và các em đi gặp cán bộ có chức quyền để hỏi c. Họ nói anh Giáo nhịn ăn cho tới chết. Mẹ anh hỏi lý do gì khiến anh Giáo phải tuyệt thực, anh Giáo có tội gì phải biệt giam, đề nghị cho xin bản án hoặc biên bản về cái chết của anh Giáo. Việt Cộng không trả lời. Mặc dầu uất ức nhưng mẹ anh cố kiềm nước mắt không bật khóc trước mặt Việt Cộng. Đến khi mẹ anh Giáo đề nghị được dẫn đi tìm mộ thì bọn Việt Cộng lại tỏ ra khó chịu và đòi hối lộ. Cuối cùng, bà và các em phải đi tìm một mình và dĩ nhiên là không thể nào tìm được ! Vì quá đau buồn, mẹ anh Giáo qua đời sau đó ít lâu. Khi tôi nhắc đến tên Huyền Trân thì chị nói đó không phải là tên đường mà là tên của chị. Có lẽ trong lúc lâm chung anh Giáo gọi tên chị mà tôi tưởng là tên đường. Chị HT nói cho tới bây giờ gia đình chị không ai biết anh Giáo nằm ở đâu. Tôi thì biết rất rõ. Ngôi mộ quay đề về hướng Đông ở một góc sân banh. Trên mộ có xuất hiện một cây hoa dại có bông rất lạ. Ngày xưa mỗi lần đi lao động về ngang qua ngôi mộ tôi đề bứt vài bông đem về cắm trong lọ mà tưởng tượng anh Giáo như còn sống. Anh Giáo đã chết một cách vô danh mà anh hùng như loài hoa kia đã dũng cảm vươn lên giữa khô cằn và gai góc.
Sau chi HT thì anh KTH, em kế anh Giáo từ bên Pháp đã liên lạc với tôi bằng thư và nói chuyện qua điện thọai. Anh cho biết rõ hơn về tính tình ngay thẳng, cương trực của anh Giáo. Anh H tỏ ra rất hãnh diện và tự hào về người anh của mình, đã chọn cái chết mà không phải ai cũng làm được. Anh đã thanh thản đi vào trang sử bi hùng của Quân Lực VNCH và dân tộc.
Anh Kha Tư Giáo ơi ! Ở một nơi nào đó chắc là anh đã mãn nguyện vì ước muốn sau cùng của anh đã được thực hiện, dầu có muộn màng. Bài mà tôi viết về anh người ta đã lấy dựng thành kịch (1), cho phổ biến, trình chiếu khắp nơi mà không xin phép tác giả. Thôi thì hãy ngậm cười mà tha thứ cho họ, tha thứ tất cả. Tha thứ cho những kẻ đã hành hạ anh, những kẻ bỏ đói anh, tha thứ luôn cho cái chuồng cọp nhốt anh đêm ngày và cái còng sắt siết chặt tay anh rớm máu ! Bây giờ đã là ba mươi bốn năm, vậy mà tôi tưởng như mới ngày nào…Lịch sử vẫn đang ghi nhận những sự thay đổi, những bước tiếp diễn lạnh lùng của nó. Có những điều anh nhận định, anh mong mỏi bây giờ đã là sự thật, ngọai trừ Tự Do và Hạnh Phúc cho mọi người. Gia đình anh có nhiều thay đổi: Mẹ anh đã qua đời, ông chú anh cũng đã ra đi. Người ta dùng tên chú anh để đặt tên một con đường nhỏ ở Thủ Đức nhưng lại viết sai chính tả ! Anh còn lại những người thân nhưng đã phân tán mỗi người mỗi ngã. Có người còn ở Việt Nam, có người ở Pháp, ở Mỹ…Tôi vẫn đang liên lạc với họ, vẫn nghe tiếng họ nói mà chưa một lần gặp mặt. Vậy mà cảm thấy như đã thân quen tự thuở nào. Về phần tôi, khi nào điều kiện cho phép tôi sẽ về lại Việt Nam. Tôi sẽ đi tìm ngôi mộ của anh, sẽ thắp lên đó một nén hương và trồng bên cạnh đó một cây sứ có bông màu trắng.
 
     GHI CHÚ :
(1) Bài viết Người Không Nhận Tội đã được Trung Tâm Băng Nhạc Asia dàn dựng với cùng tựa đề, do Ban kịch Sống – Túy Hồng trình diễn trong cuốn Asia số 36 ( chủ đề Người Lính ) tưởng niệm 27 năm tháng 4 đen (30/4/1975 – 30/4/ 2002). Bài này được viết lại tháng 4 năm 2010 để tưởng niệm 35 năm ngày mất nước.

   
      DUY NHÂN