Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Thursday, 29 August 2013

VIỆT CỘNG LUÔN DỐI TRÁ , THAY ĐEN, ĐỔI TRẮNG - XE TANK 843 KHÔNG PHẢI LÀ XE TANK ỦI SẬP CỔNG CHÍNH DINH ĐỘC LẬP

CŨNG NHƯ MỚI ĐÂY BIẾN HOÀNG VĂN LỄ (Cựu Tổng Biên Tập BÁO XÂY DỰNG ĐẢNG) THÀNH RA VIỆT KIỀU GIẢ : Amari HOÀNG VĂN LỄ TX- VIẾT BÀI ĐẢ KÍCH LÊ HIẾU ĐẰNG GIẢ DẠNG VIỆT KIỀU HẢI NGOẠI SỐNG Ở TEXAS - CHƯA XÁC NHẬN ĐƯỢC HOÀNG VĂN LỄ HIỆN SỐNG Ở TEXAS HAY VẪN CÒN TRONG NƯỚC ?./- Mt68


Vietnam: Where saying 'I love you' is impossible
1…
8. Not all war relics are what they seem



The picture of the Communist tank crashing through the gates of the Presidential Palace in Saigon and parking on the lawn gave the English language a new phrase.
But which tank was it?
Museums in both Hanoi and Saigon have tank number 843 on display with claims that it was the tank that was first through the gates. However, pictures from 30 April 1975 suggest that Tank 843 was not the first one through the gates at all.

Tank 843 got the glory, it is believed, because it was the one used in a re-enactment staged for the movie cameras immediately after the real event. War relics like these are still very important for the Communist Party whose legitimacy depends, in part, on its role in "liberating" the country. 


The fall of Saigon

Friday, April 29, 2005   by: Chris Charland/Special to BayToday.ca
A Soviet-made T-54 tank rolls into Saigon, in this AP photo taken 30 years ago. Photo submitted.

Author's note:
It is estimated that anywhere from 30 to 40,000 Canadians served in the American military during the war in southeast Asia.

Of that number, 113 were confirmed ‘killed in action’ while a further seven are still officially listed as ‘missing in action’.

April 30 marks the 30th anniversary of the fall of Saigon, the former south Vietnamese capital.

This is a brief accounting of events on that fateful day.


It was shortly before 05:00 hours Saigon time. 

The distant sounds of relentless heavy artillery and automatic weapons fire from the 13 North Vietnamese Army Divisions ringing the city had denied its residents any respite during the long night. Meanwhile, a single United States Marine Corps CH-46 Sea Knight helicopter gently settled onto the rooftop landing pad of the United States Embassy. Its sole mission, a prime directive from President Gerald Ford, was to evacuate only Ambassador Graham Martin and his staff.

The Ambassador and his entourage boarded the helicopter, callsign 'Lady Ace 09', commanded by Capt. Jerry Berry. Once airborne, Capt. Berry transmitted the code word 'Tiger' three times to confirm that the mission was successful. 

A second CH-46 soon followed in its wake to load the rest of the anxiously waiting officials. This was to be one of the final episodes of Operation Frequent Wind, the United States plan to evacuate all remaining Americans from Saigon. 

Throughout the chaotic morning, Marines under the command of Major James H. Kean U.S.M.C. Commanding Officer of Company ‘C’, Marine Security Guard Battalion and Ground Support Force Commander, U. S. Embassy Compound
had to contend with hundreds of hysterical Vietnamese Nationals who'd been employed by the U.S. Government. 

They desperately hoped to be evacuated along with the few remaining Americans. In desperation, the swelling Vietnamese hoard estimated in excess of 10,000, charged forward managing to make it on to the Embassy proper. Anticipating such a move the Marines, masters of improvisation, had hastily constructed themselves a makeshift barricade to slow down the frenzied crowd's advance. 

It took almost an hour, but to some it seemed like an eternity before a flight of Sea Knights arrived to extract the remaining rearguard, which was now taking sporadic sniper fire. At 07:58 hours, the last CH-46 to leave the United States Embassy Compound lifted off with ten Marine Security Guards of the Saigon Detachment accompanied by Lieutenant Colonel James Kean. 

Soon a strange silence, not heard in many a year, began to fall over Saigon as the last audible signatures of the chopper's rotor blades beat the humid morning air away.

At 10:24 hours, President Duong Van 'Big' Minh went on the state-run radio station to call for the cessation of hostilities by his government's forces. 

He made the same request to the enemy troops of the Provisional Revolutionary Government of the Republic of South Viet Nam who were steadily advancing from the north. 

For some strange reason Minh referred to them as "brother combatants", an unlikely case given the circumstances. To reinforce this presidential decree, General Nguyen Huu Hanh, the acting Chief of the Joint General Staff, made the order ABSOLUTE!

At 10:45 hours on the 30th of April 1975, as the oppressive mid-morning sun beat down unmercifully on the South Vietnamese capital, North Vietnamese Army Senior General Van Tien Dung's II Corps Huong Giang Tank Brigade rumbled unmolested down Thong Nhut Avenue. The Soviet-made T-54's continued up to the iron gates of Independence Palace.

The rallying cry of "Tien vi Saigon" or "Onward to Saigon" had carried them and hundreds of thousands of others throughout the drive to liberate the South. Without slowing down, a single tank, No. 843, commanded by Bui Quang Than, smashed through the side gate. In quick succession a second tank, No. 390, under the command of Vu Dang Toan, followed suit by crashing through the main gate onto the front yard.

The floodgates were now open, and soon the once stately palace grounds were littered with communist armor. In a classic touch of irony, a lone North Vietnamese soldier bearing the same name as former South Vietnamese President Nguyen Van Thieu, dashed across the lawn and up the steps, wildly waiving a large North Vietnamese flag. Bui Quang Than immediately proceeded to run up to the balcony of the fourth floor, where he unceremoniously hauled down the flag of the Republic of Viet Nam and hoisted the flag of the South Viet Nam Liberation Front. This defining moment truly signaled the end of what has been coined the ’Ten Thousand-Day War'. 


North Bay resident Chris Charland is a veteran and a special operations officer with the Michigan Association of Concerned Veterans, a small group responsible for the fundraising, building, erecting and dedication in July 1995 of the Canadian Viet Nam Veterans Memorial in Windsor, Ontario.

KHÔNG HIỂU CÓ PHẢI ÔNG TRẦN VĂN CHINH NẦY LÀ CỰU THIẾU TÁ TRƯỚC 1975 LÀM QUẬN TRƯỞNG CỦA TỈNH KIÊN GIANG KHÔNG ??? NẾU ĐÚNG THÌ ÔNG CHINH LÀ THỦ ĐỨC THẬT ĐẤY BÀ CON./- Mt68


Kính gởi ông Phạm Văn Thông

Cám ơn ông đã cho tôi lên ba trang báo Việt Luận, trước hết tôi minh xác một điều hơn ba chục năm định cư tại Sydney bản thân chúng tôi chưa bao giờ gởi một bài cậy đăng trên các báo như quý ông.
Thưa ông, sau số báo Việt luận Thứ sáu ngày 12/6/2013 tôi mới biết mục đích của bài "lá phiếu lậu" trước đây, để hôm nay quý ông có cơ hội giải thích, phân trần trên ba trang báo về Hội Sinh Viên SQTĐ/ NSW của quý ông. Nhưng ông chỉ giải thích lanh quanh, tại sao ông không đăng văn bản Cộng Đồng xác nhận hội Thủ Đức của ông với chữ ký của ông Nguyễn Văn Thanh Chủ tịch Cộng Đồng NVTD/NSW như ông đã từng tuyên bố với các Gia Đình Quân Đội và Ban tổ chức Bầu cử Ban Chấp Hành Hội Cựu QNQLVNCH/ NSW, nhưng ông lại không cho xem văn bản đó vì ông không có. Trong ngày Lễ Giỗ Tổ Hùng vương tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng không những cá nhân tôi mà còn có ông Trần Đức Nhuận, ông Nguyễn Văn Thịnh gia đình Hải Quân đã gặp ông Nguyễn Văn Thanh Chủ tịch Cộng Đồng NVTD/NSW. Ông Nguyễn Văn Thanh Chủ tịch Cộng Đồng khẳng định không có ký một văn bản nào để công nhận Hội Thủ Đức của ông Phạm Văn Thông cả.
Hai hội Thủ Đức tại NSW, một hội Thủ Đức của ông Phạm Văn Thông và hội Thủ Đức kia của ông Trần Văn Chinh đã tạo nên hình ảnh không mấy tốt đẹp về người lính Việt Nam Cộng Hòa tại NSW. Vấn nạn Thủ Đức tại NSW phải sớm giải quyết trong tinh thần vương đạo đầy tình và lý của người lính Việt Nam Cộng Hòa. Chính vì vậy mà trong đại hội, cũng như khi ông Lâm Xuân Tân Chủ Tịch Hội Cựu QN/NSW và Hội phó Thủ Đức của ông mời tôi làm cố vấn tôi đề nghị "phải tổ chức một phiên họp khoáng đại kết hợp hai hội Thủ Đức làm một cho có tình có lý, hầu tháng 10 nẩy chỉ còn một hội và một ngày truyền thống Thủ Đức tại NSW".Trong bửa tiệc ăn mừng của quý hội sau ngày bầu cử tại nhà ông Lâm Xuân khi quý ông mời tôi có ý kiến tôi vẫn phát biểu ông Chủ tịch Cộng Đồng không công nhận Hội Thủ Đức của ông, vì thế phải sớm tổ chức một phiên họp khoáng đại để kết hợp hai hội Thủ Đức NSW.
Thưa ông, chuyện bầu cử Hội Cựu Quân Nhân và Cộng Đồng cách đây hơn một năm ông đã quên hay cố tình quên, tôi nhắc lại để ông nhớ.
   Ngày bầu cử Ban chấp hành Hội Cựu QNQLVNCH/ NSW nhiệm kỳ 2011 - 2013 (Liên danh ông Trần Đăng Vĩnh và Liên danh ông Trần Đức Nhuận) tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cộng Đồng hai Hội Thủ Đức tại NSW điều không được bầu, điều nẩy chứng tỏ Hội Cựu QLVNCH/NSW không công nhận Hai Hội Thủ Đức.
   Ngày bầu cử Hội Đổng Tư vấn & Giám Sát CDNVTD/ NSW tại TTSHCĐ ông Nguyễn Văn Thanh Chủ Tịch Cộng Đồng đã yêu cầu ông trả lại lá phiếu, lúc đó ai cũng thấy điệu bộ và cử chỉ của ông đã xé vụn lá phiếu chứ không trả lại.
Trong ba trang báo tôi thấy quý ông kêu gọi "cùng nhau hướng về Trường Mẹ, tái lập lại danh dự và uy tín của người cựu SVSQTĐ/ NSW" đó là điều quý ông kêu gọi hội của quý ông thôi, hay cho cả hội Thủ Đức của ông Trần Văn Chinh. Nếu lời kêu gọi đó cho toàn thể cựu SVSQTĐ/ NSW thì tại sao ông không lại từ chối lời đề nghị mà hội Thủ Đức của ông Trần Văn Chinh cùng tổ chức bầu cử để có một hội Thủ Đức duy nhất tạiNSW, và ông Trần Văn Chinh khẳng định là Hội của ông không ra tranh cử mà ủng hộ tối đa cho liên danh của hội ông. Lời đề nghị nẩy tôi được biết là ông Trần Văn Chinh không những đã gởi đến ông mà còn đăng trên ba số báo.
Chuyện bầu cử của quý hội không liên quan đến tôi, tuy trước đây tôi có đính chính lời phát biểu của ông Trần Đăng Vĩnh, khi phỏng vấn ông Trần Đăng Vĩnh Chủ tịch Hội Cựu QN/NSW trong chương trình phát thanh của Tổng Hội Cựu QNQLVNCH/ UC. ông Trần Đăng Vĩnh đã lập lững tuyên bố "rất vui mừng khi Thủ Đức NSW có hai liên danh ra tranh cử. Một Liên Danh của ông Phạm Văn Thông và Liên danh kia là ông Nguyễn Quang Thịnh", tại sao lại cố tình lập lững như vậy? Phải chăng để thính giả lầm tưởng là Vũ Quang Thịnh Hội Trưởng hội Thủ Đức của ông Trần Văn Chinh bây giờ. Tiện đây tôi có một chút thắc mắc là ông Phạm Quang Ngọc (dạy toán Kumon) từ chức rồi, nhưng khi ông ra tranh cử thì ông Phạm Quang Ngọc cũng trở lại tranh cử?
-  Thưa ông, chuyện mà quý ông qua Perth khóc lóc, năn nỉ mời đồng môn Trần Văn Tuyền của quý ông làm Liên Hội Trưởng Thủ Đức Úc Châu, nhưng khi ông Trần Văn Tuyền giải quyết vấn nạn Thủ Đức NSW thì quý ông lại đăng báo bất tín nhiệm.
-  Trong buổi tiệc của quý hội tổ chức tại Trung Tâm Sinh Họat Cộng Đồng NSW có sự hiện diện của ông Trần Văn Tuyền Liên Hội Truông Liên Hội Thủ Đức Úc Châu, khoảng thời gian nẩy quý ông hết lời ca ngợi ông Liên hội Trưỏng Thủ Đức Úc Châu, chứ chưa bị quý ông "cách chức". Một huynh trưởng của quý ông được mời lên diễn đàng, và trong bài phát biểu có đoạn khi ông ta nói về Thủ Đức kia "tụi nó là Cộng Sản".
Qua những sự việc trên ông nghỉ thế nào? Tại sao không đưa lên ba trang báo? 
Trân Trọng 
Mai Đức Hòa

PHÓ QUẬN QGHC ÔNG LÀ AI ? - TÀM TẠM CŨNG NHƯ TÁC GIẢ NẦY ĐÂY !

VIỆT MINH, VIỆT CỘNG CHỈ CHO DÂN ĂN BÁNH VẼ - HÒA BÌNH SẼ XÂY DỰNG ĐẢNG VIÊN CAO CẤP GIÀU CÓ GẤP TRĂM NGÀN LẦN HƠN THƯỜNG DÂN./- Mt68

CÂU CHUYỆN NGẮN VỀ CHẤT ĐỘC MÀU DA CAM
- Nguyễn Nhơn - 

Nhân đọc lời bình trên DLB, thấy có tên Dư Luận viên ghi lời bình ngược ngạo như vầy:
Đoan Trang
“ Haha, một sự dối trá đáng khinh bỉ. Các người nói Pháp chiếm nước ta là để bảo vệ đất nước ta à? Rồi Đảng Cộng sản quyết đánh chiếm miền Nam à? Vậy xin hỏi, nếu như Pháp bảo vệ Việt Nam thì tại sao người dân Việt Nam lúc đó lại phải khởi nghĩa, tại sao lại có cái tên là "thực dân Pháp". Rồi về chuyện chiếm miền Nam, theo ý các người là Mỹ cũng muốn bảo vệ chủ quyền nước ta khỏi Trung Quốc và Liên Xô à? Vậy tại sao Mỹ lại rải bom, rải chất độc màu da cam xuống đất nước Việt Nam để đến bây giờ bom mìn vẫn chưa thể gỡ hết, hậu quả từ chất độc màu da cam vẫn chưa thể khắc phục nổi. Vậy các người có xứng đáng với chữ "yêu nước" không khi mà mang đất nước dâng cho những kẻ đã rải bom, rải chất độc màu da cam xuống nước ta hả bọn danlambaovn kia?”

Tôi xin kể câu chuyện ngắn về việc rãi chất thuốc khai quang, thời đó vẫn gọi hiền lành là chất làm rụng lá ( défoliant ). Giữa lúc chiến tranh sôi động, máu đổ thây phơi, chức quyền Việt – Mỹ có trách  nhiệm, trần thân đắn đo suy nghĩ: Làm thế nào để việc khai quang vì nhu cầu chiến trường, ít gây tổn hại nhứt cho  người dân?

Sau đây là câu chuyện khổ tâm của Quân chánh VNCH về vụ chất độc da cam:

Năm 1965, Sư đoàn 1 Mỹ đóng căn cứ gần rừng Cù Mi, căn cứ việt cộng. Để chống vc pháo kích, người Mỹ lập kế hoạch khai quang rừng Cù Mi. Để tránh bớt thiệt hại, thay vì rải chất độc bằng phi cơ, họ bàn bạc với Chi khu, dùng xe phun thuốc cỡ nhỏ, phải hành quân vào Cù Mi nguy hiểm hơn rải bằng phi cơ rất nhiều mà cũng phải bấm bụng chịu cho đỡ bớt thiệt hại cho dân.

Tuy chịu nguy hiểm, cố gắng như vậy vẫn gây thiệt hại cho một đám rẩy bên rìa rừng Cù Mi.

Bọn vc nhân dịp, xua đồng bào ra Quận lỵ biểu tình đòi bồi thường. Tôi lúc ấy là Phó Quận trưởng dân sự, phải giải thích hứa hẹn đủ điều, đồng bào mới chịu giải tán.

Phải xin tỉnh cấp tốc đưa ủy ban kiểm kê Bồi thường khai quang xuống xem xét.

Hôm đó, nương theo cuộc hành quân, tôi liều mạng hướng dẫn phái đoàn kiểm kê vào tận nơi như đã hứa với đồng bào. Tôi biết rõ thói quen của bọn du kích địa phương nên xông vào trước cả đơn vị hành quân để làm việc.

Thấy tôi tới tận nơi nguy hiểm như vậy bà con lấy làm lạ. Có một thím đon đả chạy lại nắm tay, hỏi tự nhiên: Nè, chú Phó, cái đơn của tui xét tới đâu rồi?
Tui cười cười, quơ cả xấp đơn ra trước mặt và đáp: Thì tui đang cứu xét nó đây!
Thím trực nhớ buông tay ra, miệng nở nụ cười bẽn lẽn.
Như đã căn dặn trước là cả đoàn phải làm việc thật nhanh. Hễ tôi hô rút là phải lên xe vọt cho lẹ.

Quả nhiên bọn du kích Địa phương cứ tưởng tôi chỉ có một tiểu đội hộ tống nên kéo ra làm ăn. Chẳng ngờ rằng đàng sau tui là Tiểu đoàn ĐPQ xông lên, nã súng cối 60 ly đùng đùng.

Trong đời công chức, phục vụ công quyền, tôi có đủ các huy chương của các bộ, phủ trung ương, nhưng đối với tôi, không có huy chương nào cao quý bằng nụ cười bẽn lẽn của thím nông dân bên rừng Cù Mi, căn cứ việt cộng.
Nguyễn Nhơn

NHỮNG CON CHÓ GIÀ NẦY CHÊ PHÂN TƯƠI VIỆT CỘNG THIỆT Ư ? - KỆ MẸ CHÚNG BÂY, HẢI NGOẠI KHÔNG BAO GIỜ TIN HAY CẦN CHÚNG BÂY PHẢN TỈNH CON MẸ GÌ CẢ- CHÚNG BÂY ĐI ĐON CÀNG SỚM CÀNG CÓ LỢI CHO TỰ DO DÂN CHỦ THẬT SỰ./- Mt68

Thú vật còn Đàng hoàng hơn
Hồ Ngọc Nhuận


Trên thế giới ai cũng biết: một nền dân chủ pháp trị đích thực, với một Nhà nước pháp quyền đích thực, là một nền dân chủ đặt luật pháp lên trên hết, trên mọi người và trên mọi quyền bính, tất nhiên và trước hết là trên người lãnh đạo cầm quyền, vì phải làm gương. Trừ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, vì Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo ở đây tự vẽ ra Hiến pháp, cầm điều 4 HP làm bùa chủ đạo, để ngồi xổm trên luật pháp.
Trong một nền dân chủ pháp trị ai cũng biết: “Điều gì luật pháp không cấm thì người dân có quyền làm”.
Nhưng trước hết, người dân còn phải làm những điều luật pháp kêu làm.
Như làm ăn thì luật pháp kêu phải đóng thuế. Làm trai thì luật pháp kêu phải thi hành nghĩa vụ quân sự. Làm người chiến sĩ trong quân đội thì phải trung thành với Tổ quốc… Ở đâu cũng vậy.
Nhưng ở Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì có khác. Ở đây đi lính, nhất là ở cấp chỉ huy, thì phải trung thành với Đảng lãnh đạo. Còn luật pháp vẽ ra để đó chớ không hẳn để thi hành. Hay chỉ thi hành theo các Ban Chỉ đạo của Đảng, có mặt ở mọi cấp mọi nơi, trước hết là ở ngành Tư pháp, đặc biệt tập trung trong tay Ban Nội chính của Đảng, từ trung ương đến cơ sở, để tập trung chỉ đạo không chỉ các bộ phận có liên quan như công an, giám sát hay tòa án, mà cả từng vụ án lớn nhỏ. Với những bản án đã được định sẵn.
Như về báo chí, miệng thì nói tự do báo chí, luật thì viết báo chí tự do, nhưng đốt đuốc cũng không tìm đâu ra một tờ báo tư nhân, mà toàn là báo của các ban ngành đoàn thể của Đảng và Nhà nước, từ trung ương đến các địa phương. Đứng đầu mỗi tờ báo, mỗi Ban Biên tập báo phải là một đảng viên Cộng sản, có mấy trăm tờ báo là có mấy trăm đảng viên Tổng Biên tập, có bao nhiêu Ban Biên tập là có bấy nhiêu đảng viên trưởng ban, dù là báo cho trẻ con hay người lớn, dù là báo chí văn hóa văn nghệ, thể thao du lịch, làm ruộng,làm ăn buôn bán, hay vui chơi giải trí… Chưa kể hàng trăm đảng viên lớn nhỏ khác trong hàng ngũ các báo. Tất cả làm thành hội nhà báo, chia thành nhiều phân hội nhà báo, đứng đầu là những ông bà đảng viên Cộng sản có vai vế nhất. Còn báo nói và báo hình, đương nhiên cũng là thành viên của Hội Nhà báo, nhưng là thành viên công cụ chuyên chính hàng đầu của Đảng.
Báo chí tự do ở đây là như vậy đó, có thêm mấy chữ “xã hội chủ nghĩa” hay không cũng vậy.
Ở đây luật viết tự do lập hội, nhưng từ hội to hội nhỏ, cả hội làm vườn, nuôi chim nuôi cá, hay hội người mù, người già, người khuyết tật, hay hội đi chơi đi bộ… phần lớn cũng phải do một đảng viên Cộng sản đứng đầu làm hội trưởng. Có ông đảng viên “cỡ bự”, đi đứng đã khó huống hồ chạy bộ, nhưng cũng là hội trưởng hội điền kinh.
Ở đây, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới, trên mọi lãnh vực, là “nói một đường làm một nẻo”.
Ở đây Quốc hội, được nói, được viết là nơi đại biểu cho quyền làm chủ của nhân dân, nhưng được Đảng Cộng sản chia nhau làm chủ rất kỹ. Tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội phải là đảng viên. Có đảng viên được cơ cấu chánh thức để được đắc cử, có đảng viên được cơ cấu để lót đường, không chịu cũng phải chịu, không được chạy, không được la, bởi ai biểu làm đảng viên. Các đảng viên lót đường này ngày càng cần, vì các ứng cử viên “tự ứng cử” ngày càng thưa, sau khi bị nhiều áp lực phải tự rút. Phải có đảng viên ứng cử thuộc loại lót đường vì phải có ít nhất hai ứng cử viên cho một ghế đại biểu, hay ba ứng cử viên cho hai ghế đại biểu. Để “coi cho được”, mà vẫn có phiếu “tập trung”. Không như “thuở ban đầu không cần e ấp ấy”, chỉ một ứng cử viên duy nhất cho một ghế đại biểu, để có phiếu tuyệt đối tập trung, nhưng mà “coi không được”. Số ứng cử viên “tự ứng cử”, tức không do Đảng Cộng sản đề cử, thường rất ít ỏi, lại bắt phải qua hai nấc lựa chọn sơ khởi là ở tổ dân phố nơi mình ở, và ở cơ quan nơi mình làm việc. Như vậy người dân hai nơi đó được biến thành cử tri hạng nhất được quyền “tín nhiệm” hay “không tín nhiệm” trước đa số các cử tri khác dựa vào mấy “tiêu chuẩn của người đại biểu Quốc hội” được ghi trong luật bầu cử, như “phải trung thành với Tổ Quốc”, “phải tôn trọng luật pháp”, hay “ phải sâu sát với cử tri”… Đó là những tiêu chuẩn phổ quát cơ bản mà mọi công dân bình thường lương thiện đều đạt, trước khi có những bằng chứng cụ thể ngược lại, chớ không riêng gì của các đại biểu Quốc hội. Còn tiêu chuẩn “sâu sát với cử tri” thì người tự ứng cử đương nhiên phải đạt hơn ai hết, bởi có ai sâu sát hơn khi nhà người ta đang ở đó, khi người ta đang làm việc ở đó? Những điều luật mị dân hết chê nổi. Vậy mà số ứng cử viên “tự ứng cử” cứ rụng như sung bị sâu. Trước hết là tự rút, vì không chịu nổi chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con chuyện cái, có khi là chuyện con chó của nhà mình bị người ta đưa ra làm đề tài mổ xẻ… khi bị tổ chức đưa ra bình chọn ở tổ dân phố. Nếu không tự rút thì cũng có người của Mặt trận đến vận động, áp lực để rút.
Nút chặn then chốt là Mặt trận mà luật bầu cử viết hẳn là có quyền lựa chọn trước khi đưa ra cho cử tri bầu cử – một Mặt trận mà một 100% thường trực lãnh đạo, từ cấp trên đến cấp dưới là đảng viên Cộng sản. Kèm bên là một Đảng Đoàn Mặt Trận. Kèm trên là một Ban Dân vận Mặt trận. Rồi Đảng ủy Khối, Đảng ủy cơ quan…cho tới Đảng ủy thành, Đảng ủy tỉnh, Đảng ủy trung ương… Tất cả gộp lại làm thành một “thiên la địa võng” để chận bất cứ ai không là người của Đảng, không do Đảng cắt cử, để Đảng tha hồ một mình một chợ ở Quốc hội.
Cái Quốc hội ”một mình Đảng một chợ” đó được tổ chức như một “Đại hội các loại cán bộ, viên chức của Đảng và Nhà nước”. Trong đó có nhiều hạng, trên hết là hạng đại biểu là thành viên Bộ Chánh trị, hay ủy viên Trung ương Đảng, chót hết là lưa thưa vài cụ thuộc vài tôn giáo lớn được cơ cấu vô Quốc hội để làm đại biểu danh dự. Ngồi yên đó để vỗ yên đồng đạo và bá tánh.
Các thành viên của cái “Đại hội các loại cán bộ viên chức của Đảng và Nhà nước”, được gọi là Quốc hội đó, tất nhiên là không phân chia theo từng khối nhóm đại biểu cho các nhóm quyền lợi hay khuynh hướng chánh trị ngoài xã hôi, mà được phân ra từng đoàn theo các tỉnh thành nơi họ cư trú, ứng cử và đắc cử. Trưởng đoàn đại biểu, nếu không là người đứng đầu đảng hay chánh quyền, thì cũng là một đảng viên có vai vế nhất nhì trong Đảng ở địa phương, để phát ngôn, phát biểu thay đoàn hay chỉ định người phát biểu ở các diễn đàn Quốc hội, hay khi tiếp xúc cử tri được tổ chức định kỳ một năm vài lần. Không ai được phép xé rào, và trên thực tế chưa thấy ai dám xé rào…
Với một Quốc hội như vậy, độc có tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội là đảng viên của một độc đảng, tổ chức có hạng bậc trên dưới chặt chẽ, với kỷ luật thép của Đảng Cộng sản, thì thảo luận ở Quốc hội là gì? Với kỷ luật thép của Đảng, khi một chỉ thị nghị quyết của Đảng đã được ban ra thì mọi phê bình đối với quyết định đó đều bị coi là phá hoại chệch hướng. Các quyết định của Đảng thường là áp đặt từ trên xuống, đặc biệt từ một nhóm nhỏ gọi là Bộ Chánh trị, có khi chỉ từ vài người có thế lực trong Bộ Chánh trị. Vì vậy đại bộ phận các đảng viên có nói gì, bàn gì, cũng không hề ảnh hưởng gì đến quyết định của lãnh đạo Đảng, mà lãnh đạo Đảng cũng không hề biết, không cần biết tâm tư ý kiến của quần chúng đảng viên. Càng không cần biết tâm tư nguyện vọng của quần chúng nhân dân.
Một Quốc hội như vậy thường được gọi là một “hòm thư”. Nhưng “hòm thư” ở đây bị rỗng, vì nguyện vọng nhân dân đã bị chận từ ngoài cổng. Hoặc bị công an rượt đuổi từ ngoài đường, tận cổng các tòa án.
Trong tình hình như vậy mà lãnh đạo Đảng, cũng là lãnh đạo Quốc hội, lãnh đạo Chánh phủ, ký kết với bất kỳ ai, cả với Bắc Kinh hay với quỷ, bất cứ thứ gì rồi đưa ra cho các đại biểu Quốc hội thông qua thì có trời mà biết đó là cái gì…
Tôi là một thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1975 đến nay tổng cộng là 38 năm. Trong đó có 24 năm, từ 1975 đến 1999, là không có luật, và 14 năm, từ ngày 12 thang 6 năm 1999 đến nay, là có luật, gọi là “Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”. Nên tôi xin nói một chút về Luật Mặt trận.
Mặc dầu có Luật Mặt trận hay không có Luật Mặt trận thì cũng vậy thôi, cũng không ai thấy Mặt trận làm gì cho dân, ngoài việc cũng có một guồng máy đồ sộ từ trung ương đến địa phương cơ sở, song song với guồng máy đồ sộ của Nhà nước, song song với guồng máy đồ sộ của Đảng, cùng chia nhau xài chung ngân sách nhà nước, tức từ tiền thuế của nhân dân, để cùng làm nhiều việc của các hội đoàn xã hội từ thiện tư nhân, ngoài các việc do Đảng và Nhà nước giao, như lập hồ sơ và sàng lọc các ứng cử viên vào Quốc hội hay các Hội đồng. Và Ban Thường trực Trung ương Mặt trận thì định kỳ ngồi ký các văn kiện gọi là “liên tịch” với Chánh phủ để định kỳ tổ chức mần liên tịch tiếp.
Còn về “nhiệm vụ chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân” như được ghi ở Điều 2 của Luật Mặt trận thì không ai thấy “mặt ông Mặt trận” ở đâu hết, khi nông dân nhiều nơi bị cướp ruộng kêu cứu, khi công nhân nhiều nơi bị hà hiếp đình công “la làng”, khi người dân kêu gọi biểu tình chống bọn bành trướng Bắc Kinh cướp đảo, rượt bắt ngư dân nước ta, hay khi thanh niên sinh viên học sinh yêu nước đấu tranh bị đàn áp.
Hay về “nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước” cũng được ghi hẳn hòi ở Điều 2 của Luật Mặt trận, cũng không ai thấy tổ chức Mặt trận giám sát được gì từ mấy chục năm nay.
Nếu đã giám sát được ai hay chút gì, trong 38 năm qua, thì đâu đến nỗi ông Tổng Bí thư Đảng lãnh đạo cầm quyền phải “ngậm ngùi”, hay ông Chủ tịch nước phải ngập ngừng không thể nói ra, trước những sai phạm to đùng nào đó trong giới lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nứớc?
Tại sao Mặt Trận lại cứ ngó lơ trước những nhiệm vụ của mình được ghi rành rành trong Luật Mặt trận?
Bởi khi khơi khơi nêu hết nhiệm vụ này đến nhiệm vụ khác, mà không giao quyền, không giao phương tiện, thể hiện bằng luật pháp, để thi hành nhiệm vụ, thì chỉ để chơi thôi. Cả khi nêu lên quyền này quyền khác mà không có phương tiện luật pháp đi kèm để thực thi thì cũng như vô quyền. Như những quyền tự do cơ bản của người dân được ghi trong Hiến pháp mà không pháp chế hóa để bảo đảm thi hành thì coi như treo đó để phỉnh người dân mà thôi. Không chỉ phỉnh mà còn ngăn chận, bao vây, đàn áp, như khi người dân sử dụng quyền biểu tình hợp pháp bất bạo động để chống bành trướng Bắc Kinh.
Mặt trận còn làm ngơ một điều cơ bản nữa mà Luật Mặt trận ngay từ điều 1 đã kêu làm.
Tức là “phát huy quyền làm chủ của nhân dân… để góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Nhưng điều đặc biệt quan trọng nhất là người ta đã nuốt dần lời hứa “Đánh thắng giặc ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn, tốt đẹp hơn”. Mà chỉ nghe thấy kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội, rồi theo định hướng xã hội chủ nghĩa… Cả hai thứ đều không hề thấy ở đâu, cả ở nơi mà cái nôi xã hội chủ nghĩa cũng đã bị vất từ lâu, trừ vài nơi người dân vừa bị đeo gông vừa hô khẩu hiệu “hoan hô lãnh tụ cha, lãnh tụ con, lãnh tụ cháu nội”.
Bởi không thể xây dựng tốt đẹp hơn, nếu không xây dựng đàng hoàng hơn. Và xây dựng đất nước đàng hoàng hơn là xây dựng một nền dân chủ đích thực, tức một hệ thống chánh trị tôn trọng sự công chính trong cạnh tranh quyền lực, tôn trọng tiếng nói, dư luận, tôn trọng phán quyết tối hậu của người dân bằng lá phiếu để có sự luân chuyển hay thay đổi quyền hành trong hòa bình, tôn trọng sự khác biệt chính kiến, sự khác biệt của người khác, có văn hóa tranh luận.
Bịt miệng, chụp mũ, trù úm, đàn áp… là tiếp tục không đàng hoàng, là làm ngược, là phản lại chính ông cha mình…Không thể có xây dựng đàng hoàng mà bóp chết tự do.
Khởi xướng, hay kêu gọi xây dựng dân chủ có đối lập, trong một xã hội dân sự tôn trọng quyền con người, có tình người, chính là tiếp nối lời kêu gọi xây dựng đất nước đàng hoàng hơn.
Đó không chỉ đơn thuần là một tổ chức chính đảng. Đó trước tiên là tinh thần dấn thân nhập cuộc, mở ra một con đường cho dân tộc thoát khỏi vòng xoáy của một hệ thống quyền lực luôn đe dọa mọi ý chí độc lập bằng bạo lực, sớm muộn sẽ đưa đất nước xuống hố diệt vong. Đó là một phong trào tập hợp mọi nỗ lực thiện chí muốn cống hiến cho đại cuộc, vì một nền dân chủ tự do độc lập thật sự cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Từng sống qua mấy chế độ khác nhau của miền Nam, từng biết qua ít nhiều vài chế độ dân chủ đây đó gần xa, tôi không hề có ảo tưởng về một chế độ dân chủ tuyệt đối, một hệ thống chánh trị tuyệt hảo ở bất cứ đâu.
Nhưng không thể không có tiếng la báo động trước sự mất còn của đất nước. Một hệ thống ngày càng chồng chất những cái không lương thiện, lại thêm lồng ghép với những nhen nhóm xã hội đen tối, kể cả mafia, ở đâu đó, là một vòng xoáy tàn khốc khó thoát đối với mọi người, mọi dân tộc.
Cái hệ thống của những điều không đàng hoàng gần như toàn diện hiện nay, nếu không sớm được thay đổi bằng một hệ thống dân chủ đích thực, sớm muộn sẽ đưa đất nước đến hố diệt vong, chắc chắn sẽ sớm đưa đến mất nước vào tay bành trướng Trung Quốc. Cái đáng sợ nhất là nó đánh mất linh hồn con người, linh hồn Việt Nam.
Đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta, dân tộc Việt Nam thân yêu của chúng ta đã chịu nhiều “cải biến” quá rồi, đã đổ nhiều máu và nước mắt quá rồi. Và thế giới, trong đó có dân ta, đã kinh qua đủ thứ cách mạng rồi. Nên không có cách nào khác, nếu muốn sống còn, là tổ chức hợp tác bình đẳng giữa những con người tự do biết tôn trọng lẫn nhau./.
26-8-2013
H. N. N.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN.

Wednesday, 28 August 2013

VC VÀ NẰM VÙNG HỐ TO KHI VẪN XEM THƯỜNG HẢI NGOẠI

HẢI NGOẠI CHÚNG TA CÙNG NHAU LỘT TRẦN BỌN CHÚNG THÌ VC KHÔNG THỂ NÀO TIẾP TỤC PHỈNH LỪA MÃI ĐƯỢC./- Mt68

TỪ NGUYỄN HỘ ĐẾN LÊ HIẾU ĐẰNG, HỒ NGỌC NHUẬN:
CŨNG CHỈ LÀ NHỮNG VỞ KỊCH!
-Lão Móc -

Trong bài “Phản tỉnh thật, phản tỉnh giả”, tôi đã trình bày những việc làm của nhà văn Dương Thu Hương (DTH), người mà ngay sau khi “con trăn Miền Bắc” nuốt trọng “con nai miền Nam”, đã bật khóc khi vào đến Sàigòn (mà những người thắng trận hãnh diện đặt cho cái tên mới là “thành phố Hồ Chí Minh” rực rỡ tên vàng) và đã có nhận xét: “Nền văn minh đã bị cưỡng chiếm bởi một chế độ man rợ!”. 
  
Trong bài viết này, tôi cũng đã viết rõ những tố cáo về chế độ CSVN của những tên “ăn cơm Quốc Gia thờ ma VC” Lê Hiếu Đằng trong bài viết“Những suy nghĩ trong những ngày nằm bệnh”Hồ Ngọc Nhuận trong bài “Phá xiềng” chẳng có mùi mẽ gì so với những quyển tiểu thuyết “Những Thiên Đường Mù”, “Tiểu Thuyết Vô Đề” và những bài viết “Những tiếng vỗ cánh của bầy quạ đen” và những bài viết tố cáo đảng CSVN đã “dẫn hổ về thịt dê nhà” và kêu gọi Quân Đội Nhân Dân đứng lên “chém chết những con đĩ Mỵ Châu (tức 14 tên đầu lĩnh bán nước trong Bộ Chính Trị) đang nằm dạng háng chờ những thằng Trọng Thủy phương Bắc (tức bọn Trung Cộng)”. 
  
Theo tôi nghĩ, vở kịch “phản tỉnh” của nhà văn DTH đã hạ màn khi bà ta được sang định cư tại Pháp và viết quyển “Đỉnh Cao Chói Lọi” để ca tụng tên tội đồ dân tộc Hồ Chí Minh. 
  
Cũng như diễn viên “phản đảng cuội” Bùi Tín đã lộ mặt quá rõ qua những việc làm của ông ta tại hải ngoại trong hơn 20 năm qua. 
  
Do đó, trong bài viết này tôi sẽ đề cập sơ lược đến “những vở kịch phản tỉnh, phản kháng” do các diễn viên Nguyễn Hộ, Nguyễn Văn Trấn, Trần Độ, Hoàng Minh Chính, Lê Hiếu Đằng, Hồ Ngọc Nhuận thủ diễn. 
  
Ông Nguyễn Hộ, một đảng viên CS có 50 tuổi đảng đã viết các quyển “Quan điểm và Cuộc sống”, “Chỉ có con đường duy nhất: Lột Xác”, “Bức thư ngỏ về giải pháp hoà giải dân tộc”. Ông này đã từng tuyên bố rất quyết liệt: “Căn nhà ở đường Trần Quốc Thảo sẽ là mồ chôn xác tôi”. 
  
Vì vai diễn của ông này “quá đạt” nên có 2 ông trí thức ở hải ngoại là ông kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng (ở Pháp) và ông Tiến sĩ Nguyễn Bá Long (ở Canada) đã “suy cử” ông này lên làm “minh chủ” cỗ xe “Mặt Trận Dân Chủ”. Ông Nguyễn Hộ, từ trong nước đã “ị” từ trên đầu hai ông trí thức Kiểng, Long mà “ị” xuống. Báo hại hai ông “trí thức đầu ruồi” này lãnh đủ cả “thùng phân phản kháng” của ông Nguyễn Hộ. (Xin xem phụ bản) 
  
Về chuyện của cố Trung Tướng Trần Độ xin xem bài viết “Trần Độ: Chống Đảng để cứu Đảng” của Lão Móc. 
  
Về chuyện ông Hoàng Minh Chính xin xem bài viết “Từ từ mà điên” của bình luận gia Kiêm Ái. 
  
Về màn giễu dở của 2 diễn viên Lê Hiếu Đằng, Hồ Ngọc Nhuận xin mời độc giả đọc “góp ý” sau đây của nick có tên “quandannambo” góp ý dưới bài của ông đảng viên Việt Tân Nguyễn Khắc Long tức Hoàng Long phỏng vấn ông Bùi Tín như sau: 
  

“Thấy quý vị bàn việc nước dễ như ăn kẹo thật buồn cười. 
Nếu những tay đổ tể như Lê Hiếu Đằng buông dao vào giờ thứ 25 mà cứu được nước  thì Việt Nam đã được cứu từ lâu. 
Trò phản tỉnh là sang kiến của Ba Đình Hà Nội đưa ra tính đến nay đã được khoảng 20 năm tuổI ý đồ chính là mở một cửa sau để thoát hiểm phòng khi chế độ sụp đổ và  cũng để hoá giải những khó khăn trên mặt trận tư tuởng văn hoá. 
  
VC tính toán rất gian manh và xảo quyệt. Tay lão thành cách mạng phản tỉnh Lê Hiếu Đằng là người thứ 201 trong danh sách diễn viên. 
Phản tỉnh LHĐ chẳng đáng xách dép cho phản tỉnh cộm cán Hoàng Minh Chính. 
Đây chỉ là trò thay đổi diễn viên. 
Đảng viên phản tỉnh miền Bắc đã hết ăn khách 
Nên phải đưa đảng viên phản tỉnh Nam Bộ lên sân khấu lên vai diễn. 
Trung tâm phản tỉnh Hà Nội đã đóng cửa nếu quý vị đảng viên lão thành cách mạng nào 
Có nhu cầu phản tỉnh…thì xin liên hệ với trung tâm phản tỉnh Sàigòn. 
Phản tỉnh Bùi Tín bơm hơi cho phản tỉnh LHĐ là đúng bài bản của Ba Đình 
Nồi nào úp vung nấy. 
Màn kịch phản tỉnh diễn đã được 20 năm Xin quý vị hãy làm lễ tổng kết 
để rút ưu khuyết điểm phê bình và tự phê để làm các màn kế tiếp hấp dẫn hơn.”   
Về một số ý kiến cho rằng không nên “đánh phá” “nhân thân” của hai ông “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng sản” LHĐ, HNN, cứ để hai ông này làm coi thật hay giả rồi hãy có phản ứng thì, xin thưa: 
  
Cá nhân tôi, LM, chỉ phê phán và đánh giá việc làm của hai ông này, chứ không đánh phá! Cũng như trong quá khứ, tôi đã phê phán và đánh giá nhà văn Dương Thu Hương, các ông Bùi Tín, Nguyễn Hộ, Trần Độ, Nguyễn Văn Trấn, Hoàng Minh Chính… cũng như đã phê phán những cá nhân và những tổ chức, đảng phái tại hải ngoại. 
  
Xin hãy phân biệt: Phê phán không phải là đánh phá! 
  

PHỤ BẢN 
  
Bà Ngô Bá Thành, người theo đảng CSVN vào giờ thứ 25, đã trả lời phóng viên ngoại quốc về số phận của “bọn ngụy quân, ngụy quyền” như sau:“Đảng và Nhà nước cho các ngụy quân, ngụy quyền đi học tập cải tạo là nhân đạo lắm rồi. Lẽ ra phải đem những người này ra mà bắn (sic!)”. Do đó, “bọn ngụy quân, ngụy quyền” của miền Nam cũng không nên “chạnh lòng” mà làm gì khi nghe Ông Nguyễn Hộ, người đã hãnh diện tự xưng “đã đi làm cách mạng 56 năm” tuyên bố: “Nhà cửa của ngụy thì ta ở, vợ của ngụy thì ta xài, con của ngụy thì ta sai, còn bọn ngụy thì ta đày chúng nó lên vùng rừng sâu, nước độc!”. 
  
Ông Nguyễn Hộ- người tuyên bố câu nói để đời này - đã qua đời vào ngày 2-7-2009. 
“Các nhà tranh đấu dân chủ, tự do” từ trong nước hết lời lên tiếng ca tụng “sự nghiệp tranh đấu cho tự do, dân chủ” của ông Nguyễn Hộ.  
  

“Quan điểm tựa Sáu Dân, mấy trận sửa sai thành quyết tử
Cuộc sống như Năm Hộ, hai lần kháng chiến để trường sinh”. 
  
Đây là câu đối do ông Hà Sĩ Phu và thân hữu gửi đến đám tang của “nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ” Nguyễn Hộ. 
  
Vào năm 1996, tại hải ngoại có ông Tiến sĩ Nguyễn Bá Long ở Canada và ông kỹ sư Nguyễn Gia Kiểng của nhóm Thông Luận ở Pháp xúm nhau vào suy tôn “nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ” Nguyễn Hộ lên làm MINH CHỦ, nhưng ông này không chịu. Lúc đó chúng tôi có viết bài viết này với cái tựa đề “Góp ý với ông Trần Bình Nam: Phê phán không phải là đánh phá”. 
  
Nay, “nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ” Nguyễn Hộ đã qua đời, không thấy “các nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ ở trong nước” ghi lại SỰ KIỆN LỊCH SỬ ông Nguyễn Hộ ĐƯỢC “các nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ ở hải ngoại” là các ông Nguyễn Bá Long, Nguyễn Gia Kiểng SUY TÔN LÀM MINH CHỦ! 
                        
Đề nghị “các nhà tranh đấu cho tự do, dân chủ ở trong nước” ghi thêm “thành tích vĩ đại” này vào sự nghiệp của ông Nguyễn Hộ. 

  
“Kính gởi giáo sư Nguyễn Bá Long. 
  
Thưa ông, 
  
Vừa qua, ông có hỏi tôi về một bức thư ngỏ gởi cho cộng đồng người Việt hải ngoại bên dưới có ghi tên tôi - Nguyễn Hộ - có phải là của tôi không? Vì tôi chưa có và chưa kịp đọc bức thư ấy nên tôi chưa kịp trả lời ngay cho ông. Nay thì sau khi đọc được nó rồi, tôi xin khẳng định với ông là từ đầu năm 1996 đến nay (gần 4 tháng) tôi không hề viết bức thư ngỏ nào gửi cho cộng đồng người Việt hải ngoại cả (chỉ trừ bức thư tôi viết vào cuối năm 1995 để trả lời các câu hỏi của ông đặt ra sau khi ông đọc thư ngỏ của tôi về giải pháp hòa giải hòa hợp dân tộc ở Việt Nam). Chắc ai đó ở hải ngoại với động cơ và ý đồ gì thì tôi không rõ, đã mạo danh tánh tôi, viết ra bức thư ngỏ ấy. Đó là điều sai trái. Vậy xin thông báo ông rõ để tránh lầm lẫn. Cái gì của tôi viết thì tôi khẳng định nó là của tôi như “Quan điểm và cuộc sống”, “Chỉ có con đường duy nhất: Lột xác”, “Bức thư ngỏ về giải pháp hòa hợp hòa giải dân tộc”. Ngoài ra, cái gì không phải của tôi (dù có ghi rõ tên tôi) thì tôi phải khẳng định nó không phải là của mình. 
Sự đời thật phức tạp. Mong ông hiểu cho. Chúc ông luôn vui khoẻ và hạnh phúc. 
Thân ái 
(ký tên) 
Nguyễn Hộ”.  
  
Trên đây là lá thư viết tay không đề ngày của ông Nguyễn Hộ, gửi cho ông Nguyễn Bá Long, để trả lời với ông Long cùng một số người khác ồn ào suy cử ông Nguyễn Hộ làm lãnh tụ. 
  
Trái núi đẻ ra con chuột. Mọi chuyện bắt đầu từ nhóm Thông Luận của ông Nguyễn Gia Kiểng ở Paris, đưa đến sự sai lầm đáng tiếc của ông Nguyễn Bá Long ở Canada. 
  
Về việc này, ông Trần Bình Nam của Tổ chức Phục Hưng đã viết một bài, tựa đề “Ông Nguyễn Hộ và bà Dương Thu Hương” với nội dung bào chữa cho việc làm của nhóm Thông Luận, trách móc ông Nguyễn Hộ chấm dứt với kết luận: 
  
“Hãy để cho ông Nguyễn Hộ trở về hàng ngũ của ông, trên con đường tranh đấu, ta còn gặp lại ông. Nhưng không vì một lý do nào người quốc gia phải đánh nhau vì lá thư không đề ngày của ông Nguyễn Hộ.” (Trần Bình Nam, Bài đã dẫn).   
  

  • Diễn tiến sự việc:
  
-Đầu tháng 3-1996, nhóm Thông Luận của ông Nguyễn Gia Kiểng phổ biến một lá thư ngỏ, không có ký tên, đề ngày 19-2-1996, nói là của ông Nguyễn Hộ, nội dung kêu gọi mọi người Việt Nam trong và ngoài nước thuộc mọi phe phái thành lập một mặt trận dân chủ. 
  
-Ngay sau đó, ông Nguyễn Bá Long và nhóm của ông đã đứng ra thành lập một mặt trận dân chủ, suy tôn ông Nguyễn Hộ lên làm Chủ tịch và ông Nguyễn Bá Long tự phong là Tổng thư ký. Ông Nguyễn Bá Long kêu gọi sự ủng hộ của mọi người đối với việc suy cử ông Nguyễn Hộ của ông. 
  
-Tháng 7-1996: Ông Nguyễn Hộ gửi ra hải ngoại lá thư viết tay, có ký tên, nhưng không đề ngày viết. Nguyên văn bức thư này đã được ghi lại như ở phần đầu bài viết này. Lá thư tuy không đề ngày, nhưng qua nội dung, ông Hộ cố ý để lộ cho mọi người là ông viết bức thư nói trên vào khoảng cuối tháng 4-1966 (“… Từ đầu năm 1966 đến nay (gần 4 tháng) tôi không hề viết bức thư ngỏ nào…”. Thư ông Nguyễn Hộ đã dẫn ở đầu bài). Còn thời gian chính xác khi ông Nguyễn Hộ viết lá thư này là điều cần phải xét lại. 
  
-Trong bài “Ông Nguyễn Hộ và bà Dương Thu Hương”, ông Trần Bình Nam viết: “Dư luận vốn thích chuyện ‘scandale’ nên thư ông Nguyễn Hộ trở thành lý do ngon lành để các đoàn thể chính trị hải ngoại chỉ trích và tố cáo lẫn nhau. Biết đâu đó cũng là điều ông Nguyễn Hộ muốn. Vào lúc Thông Luận phổ biến thư ngỏ, ông Nguyễn Hộ đang bị chính quyền Cộng sản bao vây và một phụ tá của ông Nguyễn Hộ đã liên tục thúc hối Thông Luận phổ biến thư ngỏ. Bản văn do Thông Luận thảo, đã được trao đổi với ông Nguyễn Hộ, thời gian ông chưa bị bao vây, mặc dù chưa chung quyết. Trước khi phổ biến, tài liệu đã được sửa đổi theo yêu cầu của người phụ tá ông Nguyễn Hộ…” (TBN, Bđd). 
  
Như vậy rõ ràng, bức thư ngỏ đề ngày 19-2-96 do nhóm Thông Luận phổ biến và tuyên bố là của ông Nguyễn Hộ, thực sự không do chính tay ông Hộ viết, và không được gửi đi từ Việt Nam, do đó không có chữ ký của ông Nguyễn Hộ. Bức thư do nhóm Thông Luận thảo ra, và theo ông Trần Bình Nam, đã có những trao đổi giữa ông Hộ và nhóm Thông Luận về nội dung bức thư. Nhưng vào thời điểm cuối cùng trước khi lá thư được phổ biến, Thông Luận không còn liên lạc được với ông Hộ. Thông Luận chỉ còn liên lạc được với “người phụ tá” của ông Hộ, và nội dung bức thư đã được sửa chữa lại theo lời yêu cầu của người này. “Người phụ tá” này là ai mà được Thông Luận tin tưởng và nghe theo?    
  

“… Trong khi đó người phụ tá của ông Nguyễn Hộ thúc đấy Thông Luận phổ biến lá thư ngỏ đã soạn thảo trước kia với vài thay đổi. Qua nhiều năm làm việc với nhau, Thông Luận không nghi ngờ gì về ý muốn của ông Nguyễn Hộ qua người phụ tá nên đã phổ biến thư ngỏ ngày 19-2 như một văn kiện do ông Nguyễn Hộ ký…” (TBN, Bđd).

Rõ ràng Thông Luận và “người phụ tá” của ông Hộ mới thực sự là tác giả bức thư và cũng là người đã chịu trách nhiệm phổ biến lá thư đề ngày 19-2-96. Ông Trần Bình Nam đã bỏ công bào chữa cho nhóm Thông Luận: “… Vì hoàn cảnh khắc nghiệt, ông Nguyễn Hộ không ký được, nay ông có quyền nói ông không ký nhưng hàm ý rằng Thông Luận giả mạo tên của ông là điều quá đáng…” (TBN, Bđd). 
  
Trên lý lẽ, nhóm Thông Luận khó bào chữa việc mạo danh người khác. Thông Luận đã thảo ra bức thư, “người phụ tá” của ông Hộ góp ý kiến sửa đổi, sau đó đem phổ biến dưới tên ông Nguyễn Hộ. Màn kịch do Thông Luận và một vài người - chưa rõ danh tính, gốc gác - mệnh danh phụ tá cho ông Hộ góp tay dựng nên. Bào chữa chuyện mạo danh này bằng cách nói rằng nội dung bức thư được trao đổi trước là không thuận lý. Cho dù lá thư ấy được chính tay ông Hộ từ trong nước gửi ra nhưng không có chữ ký của chính ông Hộ thì Thông Luận cũng không thể phổ biến dưới danh nghĩa của ông Hộ được. Đó là một kẽ hở cố tình trên khía cạnh pháp lý. Chỉ có một trong hai điều sau đây là có thể được mọi người chấp nhận: 
  
Thông Luận đã dựng nên màn kịch, hoặc Thông Luận tỏ ra hết sức ngờ nghệch về pháp lý và không có sự thận trọng cảnh giác tối cần thiết trong khi đối đầu với những người Cộng sản. 
  
Đối với nội tình trong nước, ông Trần Bình Nam nhận định: “Thời gian gần Đại hội 8, khoác bên ngoài là sự tranh chấp giữa hai khuynh hướng bảo thủ và cởi mở (kinh tế và chính trị) kỳ thực bên trong là sự tranh chấp giữa hai khuynh hướng Bắc Nam trong Đảng. Võ Văn Kiệt bị nhóm bảo thủ Hà Nội tìm cách bứng ra khỏi vị trí quyền lực, ông bèn trở về huy động lực lượng gốc miền Nam, trong đó có nhóm ông Nguyễn Hộ để tự tồn… Cho nên ông Hộ đổi liên minh là phải vì liên minh với các đảng viên Cộng sản gốc miền Nam mới có khả năng thay đổi thế cờ…” (TBN, Bđd). 
  
Lẽ ra nên có sự cảnh giác trước khi có chuyện này xảy ra. Ông Trần Bình Nam cho rằng tại “dư luận vốn thích chuyện ‘scandale’ nên thư ông Nguyễn Hộ trở thành lý do ngon lành để các đoàn thể chính trị hải ngoại chỉ trích và tố cáo lẫn nhau”. Nếu ông Trần Bình Nam để ý sẽ thấy dư luận đã lên tiếng phê phán ngay từ khi  ông Nguyễn Bá Long bắt đầu lên tiếng suy cử ông Nguyễn Hộ, chứ không phải lên tiếng sau khi ông Nguyễn Hộ gửi ra hải ngoại lá thư có ký tên nhưng lại không đề ngày! 
Mọi người đã lên tiếng cảnh giác trước khi ông Nguyễn Bá Long rơi xuống cái hố do chính ông, Thông Luận và “người phụ tá” của ông Nguyễn Hộ góp tay đào nên. Ông Nguyễn Bá Long đã vô tình đào sâu cái hố rồi chính mình rơi xuống đó. Còn Thông Luận và những “người khác” khi góp sức khoét sâu cái hố cho ông Long - và những người theo ông; chưa chắc đã là sự vô tình! 
  
Còn về phần ông Nguyễn Hộ, để giải thích sự thay đổi của ông này, ông Trần Bình Nam viết:

 “… Trước kia Nguyễn Hộ giận Võ Văn Kiệt, cho rằng ông Kiệt liên kết với đám cầm quyền Hà Nội để bắt nạt anh em đảng viên tiến bộ ở miền Nam và nhất là đã xử tệ với ông, nhưng sau đại hội 8, ông Võ Văn Kiệt nhờ sự ủng hộ của anh em đảng viên miền Nam mà giữ được vị trí nên ông Kiệt dứt khoát với nhóm cầm quyền Hà Nội, và ông Nguyễn Hộ đã tìm thấy nơi liên minh với ông Kiệt một thế đứng lâu dài hợp với đường lối và bản chất địa phương của ông. Nếu trước kia, ông Nguyễn Hộ không có liên minh nào ngoài liên minh với hải ngoại, bây giờ ông có một liên minh vững chắc bên cạnh vốn có cùng ngôn ngữ chính trị với nhau. Cho nên ông Hộ đổi liên minh… Là Cộng sản suốt cả cuộc đời, ông có quyền trở về liên minh với những người Cộng sản của ông…” 
  
Ông Trần Bình Nam có thể đã có một cách suy nghĩ khá đơn giản trước những chuyện phức tạp, chồng chéo nhau của cuộc tranh giành quyền lực trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói rằng nhờ sự ủng hộ của đảng viên miền Nam mà Võ Văn Kiệt giữ được vị thế và quay ra “dứt khoát với nhóm cầm quyền Hà Nội” nghe có vẻ như một lời nhận định mang tính chất khôi hài! Chính Võ Văn Kiệt và phe nhóm đang đứng chia phần, bắt tay thỏa hiệp với các phe nhóm khác - ít nhất là trong giai đoạn này - hầu chia chác quyền lợi cho mỗi bên. 
  
Ông Nguyễn Hộ có vì quyền lợi hoặc sự an toàn cá nhân phe nhóm của ông mà thay đổi, chuyện đó chúng ta hoàn toàn có thể dự đoán được. Bởi vì nhiều người đã lên tiếng góp ý với ông Nguyễn Bá Long từ khi ông này vận động suy cử ông Nguyễn Hộ. Làm sao chúng ta có thể giao trọng trách lãnh đạo chúng ta trong cuộc đấu tranh đòi tự do dân chủ với Cộng sản vào tay một người mà chúng ta không hoàn toàn tin tưởng, đồng ý? Làm sao chúng ta có thể đặt lòng tin vào một người mà rất nhiều người trong chúng ta chỉ “nghe” chứ chưa hề “biết” rõ? Liệu ông Nguyễn Hộ sẽ hành xử vai trò lãnh đạo Mặt Trận Dân Chủ của chúng ta như thế nào trong hoàn cảnh của ông ở trong nước? Với những bài viết của ông gửi ra hải ngoại, chúng ta có thể ghi nhận sự phản tỉnh của ông đối với chủ nghĩa Cộng sản, ý thức về tự do, dân chủ nơi ông. Chúng ta có thể để ông đi cùng đường với chúng ta, yểm trợ ông, khai thác những mặt có lợi trong các lời nói và hành động của ông. Nhưng không nên ngờ nghệch làm một việc vô tác dụng - nếu không muốn nói là phản tác dụng - khi suy cử ông Nguyễn Hộ làm lãnh tụ. MỘT LÃNH TỤ PHẢI CÓ TÁC DỤNG CỦA MỘT BIỂU TƯỢNG, NHƯNG KHÔNG PHẢI BIỂU TƯỢNG NÀO CŨNG CÓ KHẢ NĂNG TRỞ THÀNH LÃNH TỤ! 
  
Tại sao chúng ta liều lĩnh đặt Mặt Trận Dân Chủ dưới sự lãnh đạo của ông Nguyễn Hộ, một người mà theo ông Trần Bình Nam, các quan hệ giữa ông này với ông Võ Văn Kiệt thay đổi như chong chóng? Tại sao chúng ta lại liều lĩnh đem số mệnh của cả một phong trào vận động đặt vào trong mối quan hệ của hai ông Võ Văn Kiệt và Nguyễn Hộ, vốn  đã không lấy gì làm chắc chắn lắm? 
  
Ông Trần Bình Nam nhận xét về cuộc tranh chấp trong đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay như sau:

 “Đại hội nhưng không có quyết định quan trọng gì về chính sách kinh tế, nhưng với sự sắp xếp nhân sự Chính trị bộ, nhất là nhân sự của Thường vụ Chính trị bộ gồm 5 ủy viên, trong đó cứ xem ông già Đỗ Mười trung lập; Anh và Phiêu (một người miền Bắc, một người miền Trung) bảo thủ; Kiệt và Dũng (hai người miền Nam) cởi mở, người ta thấy một sự dàn trận giữa hai khuynh hướng Bắc Nam. Cuộc chiến chỉ mới bắt đầu và sự ngã ngũ của nó sẽ quyết định tương lai chính trị Việt Nam…” (TBN, Bđd). 
  
Phe nào trong Đảng thắng thế, thì Đảng vẫn là thế lực bao trùm tuyệt đối trên mọi sinh hoạt chính trị của đất nước. Tương lai chính trị của nước Việt Nam chỉ được quyết định ngã ngũ ngay ở điểm Đảng Cộng sản Việt Nam có chịu từ bỏ việc độc quyền lãnh đạo  hay không mà thôi. Phe nhóm nào đạt được sự thắng thế trong Đảng, điều ấy có ảnh hưởng nhất định đối với đất nước trong một giai đoạn nhất thời; nhưng chắc chắn sẽ không mang quyết định chung cuộc. Đó là điều dứt khoát. 
  
Mọi người đã phê phán và còn tiếp tục phê phán những hành động của ông Nguyễn Bá Long và nhóm của ông. 
  
Nhưng phê phán không có nghĩa là đánh phá. Mọi người phê phán hành động suy tôn ông Nguyễn Hộ của ông Nguyễn Bá Long. Người ta phê phán đó là một hành động nông nổi, thiếu cảnh giác và không được đặt trên căn bản của một sự nhận thức và suy xét không kỹ lưỡng, cẩn trọng. Rõ ràng là hành động của nhóm ông Nguyễn Bá Long vừa rồi đã đem lại những thiệt hại không nhỏ đối với phong trào tranh đấu cho dân chủ, tự do. Nhưng không ai đánh phá ông Nguyễn Bá Long và nhóm của ông, chưa đến nỗi có ai lên tiếng cho rằng ông Nguyễn Bá Long và nhóm của ông đang cố tình phá hoại công cuộc đấu tranh cho tự do, dân chủ. Người ta đã lên tiếng cảnh giác ông, nhưng vì những lý do nào đó, ông Nguyễn Bá Long đã bỏ ngoài tai những lời cảnh giác ấy. Đó là lý do tại sao ông đang bị dư luận người Việt hải ngoại phê phán hơi nặng nề. Nhưng sự phê phán nặng nề đó vẫn không phải là sự đánh phá. 
  
Có thể có một số người nghĩ rằng ông Nguyễn Bá Long nhất định suy cử ông Nguyễn Hộ làm Chủ tịch Mặt Trận Dân Chủ là để qua đó, khẳng định chức Tổng thư ký Mặt Trận này mà ông tự phong cho mình. Chính việc này đã dẫn đến hậu quả tai hại như vừa rồi. Việc này hãy để công luận đánh giá. 
  
Những hành động mập mờ, không rõ ràng của nhóm Thông Luận trong nhiều năm qua đã khiến mọi người nghi ngờ về lập trường của nhóm này. Sự kiện Thông Luận và “người phụ tá” của ông Nguyễn Hộ đã thảo ra, sửa đổi và phổ biến lá thư ngỏ không ký tên đề ngày 19-2-96, nói chung là của ông Nguyễn Hộ mặc dù ông này chưa có ý kiến “chung quyết” - chữ của chính ông Trần Bình Nam - đã củng cố thêm sự bất tín nhiệm của công luận đối với lập trường và hành động của nhóm Thông Luận. Ông Trần Bình Nam cố công bào chữa cho nhóm này, phải chăng vì sự liên hệ mật thiết giữa Tổ chức Phục Hưng và nhóm của ông Nguyễn Gia Kiểng? 
  
Ông Nguyễn Hộ đã có đầy đủ căn bản về lý lẽ để nói rằng ông không hề phổ biến lá thư ngỏ đó. 
  
Người quốc gia không “đánh phá nhau vì một lá thư không đề ngày của ông Nguyễn Hộ” như ông Trần Bình Nam viết đâu. Người quốc gia đang rút kinh nghiệm với nhau về phương thức đấu tranh kêu gọi những ai đang dấn thân đấu tranh hãy tỉnh táo cảnh giác trước mọi thủ đoạn chống phá hàng ngũ Quốc Gia của những người Cộng sản. 
  
Cảnh giác với thủ đoạn của những người Cộng sản, đó là chuyện đương nhiên. Nhưng chúng ta cũng cần phải cảnh giác trước lập trường và hành động mập mờ của nhóm Thông Luận nữa. Còn với ông Nguyễn Bá Long, ông hãy mừng là ông Nguyễn Hộ chỉ mới tuyên bố rằng ông ta chưa hề viết lá thư ngỏ ngày 19-2-96. Ông Hộ chưa tới mức quay ngoặt 180 độ để đánh ngược Mặt Trận Dân Chủ do ông Long làm Tổng thư ký, đó là điều may mắn cho ông và cho mọi người nữa. 
  
Cỗ xe Mặt Trận Dân Chủ do ông Nguyễn Bá Long làm tài xế với vị khách danh dự tối cao là ông Nguyễn Hộ, chỉ mới vừa lăn bánh là đã rơi xuống hố. Nếu ông Nguyễn Hộ chờ thêm một thời gian nữa, khi cỗ xe này đã chạy hết công suất rồi mới ra tay thì hậu quả sẽ còn xấu hơn nhiều! Còn với ông Trần Bình Nam, thưa ông, người Quốc Gia đang rút kinh nghiệm với nhau, đang phê phán nhau, không phải quay ra đánh nhau như ông đã viết. Rõ ràng trong chuyện này, Thông Luận phải gánh một phần trách nhiệm; ông cần gì phải tốn sức bào chữa cho nhóm này như vậy?

LÃO MÓC
tieng-dan-weekly.blogspot.com