Mt68 History

Trang Mậu Thân 68 do QUÂN CÁN CHÁNH VNCH và TÙ NHÂN CẢI TẠO HẢI NGỌAI THIẾT LẬP TỪ 18 THÁNG 6 NĂM 2006.- Đã đăng 11,179 bài và bản tin - Bị Hacker phá hoại vào Ngày 04-6-2012. Tái thiết với Lập Trường chống Cộng cố hữu và tích cực tiếp tay Cộng Đồng Tỵ Nạn nhằm tê liệt hóa VC Nằm Vùng Hải Ngoại.

Saturday, 1 February 2014

TRẬN TẾT MẬU THÂN 1968 LÀ TỘI ÁC DÃ MAN, MỌI RỢ NHẤT CỦA VIỆT CỘNG BẮC VIỆT./- Mt68

Di vật Tết Mậu Thân, 1968

Trần Vũ
 

Tôi mang những người lính này trong lòng như một di vật!

 
1.
Mỗi con người ngày nay mang trong mình một di vật. Với tôi là chiến tranh và tiểu thuyết. Chiến tranh của suốt tuổi hoa niên không bao giờ chấm dứt và tiểu thuyết của một thời đại đã biến mất. Không biết từ bao giờ tôi nghiệm ra tuổi thơ của mình vẫn chưa chấm dứt. Tiếng súng AK trong đêm tối Tết Mậu Thân còn hộc lên như nhát búa. Tiếng súng in sâu vào tâm trí mà tôi không hay.

Lần đầu tiên tôi nghe tiếng súng sát cạnh nhà. Cả ánh lửa của trái hoả tiễn vút qua cửa sổ rồi nổ ầm rung chuyển trước khi khói bốc lên cao. Căn phòng tôi ở lầu hai, trông xuống xóm Chùa. Mẹ sai chị Ni tháo chấn song sắt của ô cửa sổ trông sang hãng Sáo công ty. Mẹ dặn nếu Việt Cộng đập cửa, u dẫn các em chui qua cửa sổ, lần theo mái ngói xuống nhà ông bà Văn Chung. U Đào vâng dạ. Tròng mắt u đầy kinh hãi. Thầy vắng nhà, xuống Long An khai trương rạp hát. Nhà không đàn ông nhưng mẹ vẫn bình tĩnh thu xếp mọi thứ. Một túi quần áo, một túi gạo và tư trang gói trong khăn lụa. Mẹ sắp xếp với kinh nghiệm tản cư từ Hà Nội. Câu chuyện tản cư chúng tôi nghe không biết bao nhiêu lần, cả nhà chạy về quê nội, rồi ông bị đấu tố, trói giật cánh khuỷu ở hàng rào ngôi nhà bây giờ là uỷ ban tỉnh Vĩnh Phú. Thầy và chú Ích bị trói quỳ ở giếng, nhảy dù Tây bất ngờ nhảy xuống Phú Thọ, bắn nhau trong vườn và bà nội lạc đạn, chết trên đường tải thương. Dường như từ ngày đó, ông im lặng. Từ ngày đó thầy và mẹ không còn ủng hộ Việt Minh.

U có ủng hộ Việt Minh không? U đang đứng run rẩy, mãi u mới thưa bẩm: Thưa mợ, thế còn đồ đạc trong nhà ai trông? Mợ cho con ở lại trông chừng. Mẹ gạt: Bổn phận u là trông các em. Nhà này bỏ của chạy lấy người, u quên Phú Thọ rồi à.

U sắp sụt sùi. U từng chứng kiến bao cảnh gia đình tôi chạy loạn. Ngày xưa còn con gái vào ở cho gia đình ông, u có thương bà nội như thương mẹ bây giờ, u nghĩ gì khi vốc đất lấp mả hoang cho bà ven vệ đường? Chắc u ít kỷ niệm với đất Quảng của u bằng đất Bắc. Ít gắn bó với quê u như gắn bó với gia đình tôi. U lưu lạc phương nào làm sao từ đất Quảng Ngãi lại ra đến Phú Thọ, rồi theo thầy mẹ về thành, rồi di cư vào Nam. Sao u không theo Việt Minh mà theo về vùng tạm chiếm? Họ đấu tranh cho giai cấp của u mà. Nhiều năm sau này tôi hỏi: Sao gọi Sài Gòn là vùng tạm chiếm? Phải gọi Lộc Ninh, Phước Long là vùng tạm chiếm mới đúng. U trả lời u chả biết. Và tôi cũng không biết. Nhưng năm 68 tôi hãy còn bé, tôi chưa biết đặt những câu hỏi khó như vậy. Tôi chưa biết chuyện gì xảy ra. Đất nước đang chiến tranh, tôi không hề biết. Mai Thảo đang viết tiểu thuyết, tôi không hay. Tôi chỉ biết đến u Đào và con đường từ nhà ra đến chợ Tân Định. Mỗi sáng u cầm tay giắt tôi băng qua đường, đi về hướng nhà thờ. Rồi u mua cho tôi cây kem, khi bịch bánh cay, trước khi u mỉm cười đứng ngó tôi bước chân qua cánh cổng sắt có các dì phước hung ác đứng canh. U Đào, u là ai? Cho đến bây giờ, hai mươi năm sau khi viết truyện Gia Phả, tự phong mình làm Thiếu Đế, vị hoàng đế cuối cùng của triều Trần, cho nhân vật u Đào đi ở cho tộc Trần, nuôi dưỡng Linh từ quốc mẫu Trần Thị, tôi vẫn chưa biết u là ai. Tên tuổi, làng quê, chánh quán của u, gia cảnh của u ra sao, u còn trinh hay không? Tôi chỉ biết u sống với gia đình mình từ lúc thầy còn trai trẻ, mẹ chưa về làm dâu, chúng tôi sinh nở trên tay u, trên hai cánh tay ẵm bồng của u, cho đến buổi tối Tết Mậu Thân, 1968,  u tình nguyện ở lại giữ nhà.

Chúng tôi hét: Không, u đi với tụi con, u không được ở lại!

Chúng tôi níu lấy u làm như đã sắp chia cách.

Mẹ gắt: Im ! Tiếng chân người đi lạo xạo ngoài cửa. Tiếng đập cửa ở các nhà chung quanh. Mẹ thì thào: Ni lên phòng ông tắt cây đèn trần. Nhanh. Chị Ni quýnh quáng trong lúc mẹ tắt cây đèn nhỏ thắp trên bàn thờ. Chúng tôi cứng người vì sợ hãi, bàn chân tôi lạnh như nước đá. Tôi lại bấu lấy u, đeo cứng lấy u không cho u nhúc nhích. Tôi chưa hình dung thế nào là Việt Cộng nhưng biết mẹ rất sợ những con người ngoài cửa. Tiếng đập cửa mỗi lúc một lớn. Tiếng quát tháo bắt mở cửa, lẫn tiếng gia đình Pharmacie Dung khẩn khoản. Pharmacie Dung sát vách nhà tôi. Mẹ bảo u cho các em chui qua cửa sổ. Mau. U Đào bắt đầu run. Chị cả giục Vũ nhanh lên! Tôi rướn người, uốn lưng luồn giữa hai chấn song. Bên trên trời đầy sao. Cả một vòm trời đầy sao bất chợt lấp lánh trên nền tím lạ thường. Phải sau này tôi mới hiểu vẻ đẹp của sự bất trắc. Nền trời khuya ửng những đám cháy hoà với các giải mây đen làm thành màu tím. Mãi sau này tôi mới nghi hoặc những tín hiệu của trời đất, các đốm sao muốn báo hiệu nguy biến, như trong chuyến hải trình vượt biên, giữa đêm tôi chợt khám phá biển chớp sao trước khi tàu chìm. Nhưng năm 68 tôi còn bé, lần đầu tiên trông thấy nền trời khuya không phản chiếu ánh điện. Gió mát từ kênh Nhiêu Lộc đưa tiếng còi hụ ở xa.

- Vũ nhanh lên ! Chị cả thúc giục.

Tiếng súng nổ lúc đó. Tiếng súng nổ ran ngay trước cửa nhà. Tiếng súng nổ mạnh lắm. Lính Mỹ trên binh đinh Yên Đỗ đối diện bắn xuống mặt đường Hai Bà Trưng. Tôi nghe tiếng đạn chọc trên lớp nhựa. Tiếng đạn nạo lòng đất. Tiếng la hét, tiếng chạy huỳnh huỵch. Mẹ hốt hoảng lôi tuột tôi xuống. Cả nhà núp dưới bàn thờ. Lúc này tiếng súng liên tục. Tiếng súng đập vào hai lớp cửa sắt rung như bị nện búa. Tất cả đồ đạc lay chuyển. Không phải chúng tự chuyển động mà mỗi khi bích kích pháo rớt, tiếng ầm như sát bên cạnh, cả nhà lại nhốn nháo chạy từ vách tường bên này sang vách tường bên kia, hất đổ lọ bình, xô lệch bàn ghế.

Tiếng súng át tất cả, nổ từng tràng, từng chập rồi đứt quãng, rồi lại râm ran. Chúng tôi theo dõi gương mặt mẹ để đoán chừng an nguy. Gương mặt mẹ căng thẳng tột độ. Mẹ cũng đang theo dõi tiếng súng với hy vọng lính Mỹ tiếp tục bắn trả. Gương mặt mẹ khi ấy hẳn giống gương mặt mẹ ở Phú Thọ. Như mẹ kể lại. Mẹ đã khẩn cầu rồi vui sướng xiết bao khi viên quan ba Tây chạy đến. Chậm một phút nữa là thầy và ông nội các con bị họ giết. Họ tra khảo để khảo của. Gương mặt mẹ lo lắng pha lẫn hy vọng. Hy vọng lính Mỹ tiếp tục chống trả. Sau này tất cả chị em chúng tôi đều cùng tự hỏi: Vì sao dân tộc chống Pháp giành độc lập mà gia đình chúng tôi lại mừng rỡ khi lính Tây nhảy dù xuống? Vì sao tướng Salan khi ném 3 Tiểu đoàn Nhảy dù xuống Phủ Đoan, Đoan Hùng, Phú Thọ trong cuộc hành binh Lorraine đã vô tình cứu sống gia đình tôi? Vì sao Việt Minh muốn thắt cổ thầy, muốn hành quyết ông? Gia đình chúng tôi không làm việc cho Tây, mà yêu đất nước này. Ông không phải là địa chủ, nhà không có đất. Ông thừa kế hiệu thuốc Bắc của cố, mở thêm gian bán vải, ông chú có tiệm bánh trung thu. Có gì giàu sang đâu mà phải tội. Có cái gì đó trái ngược đến phi lý. Vì những con người giành độc lập là những con người tàn nhẫn, triệt hết tất cả những ai khác biệt. Chú Minh về sau giải thích như vậy. Nhưng vì sao ông cố là người Trung Hoa, gia đình tôi là một gia đình Trung Hoa chạy loạn sang Việt Nam lại can dự vào cuộc chiến này, mà thầy đứng hẳn về phía miền Nam, hy vọng Bắc tiến? Tôi không hiểu.

Năm 68 tôi chưa biết thắc mắc. Tôi chỉ là đứa bé kinh sợ mỗi khi tiếng đạn chọc vào lớp cửa sắt. Lớp sắt rung lên như tiếng nấc trong lòng tôi cố kềm hãm. Tôi chỉ biết thúc đầu gối vào mạn sườn u và ôm u chặt cứng. Tiếng đạn sẽ mãi mãi, vĩnh viễn, không bao giờ biến mất. Kể cả sau Mậu Thân. Chúng chốt xoáy trong trí óc tôi một đầu đạn vô hình. Chúng chọc thủng tấm màn lịch sử buộc phải tự tìm hiểu.

Tôi nhắm chặt mắt, bưng tai, dúi mặt vào ngực u tìm sự bảo bọc, tìm cả sự êm ái mà chỉ có u mới có thể đem đến cho tôi vì mẹ luôn cứng rắn. Đến khi u bế xốc tôi lên, tôi mở mắt nhìn thấy lửa cháy cuồn cuộn phừng phừng trên các dẫy nhà phía sau đường Đặng Tất trong xóm Chùa. Cháy, cháy, mợ ơi. Cháy. U hốt hoảng. Mẹ quát: U đưa các em xuống lầu. Mau. Ni hứng nước vào các chậu, nếu lửa lan đến nhà mình thì dội. Mẹ sắp xếp, phân bố công việc cho tất cả mọi người. K, anh cả xách túi áo quần. Chị N, chị cả kéo bịch gạo. U bế tôi xuống bếp. Sân bếp tối om. Tiếng ống nước chảy chị Ni đang hứng vào chậu kêu như thác.

Đến khi súng ngớt, chị Ni thì thầm: Họ rút đi rồi. May lính Mỹ đóng trước nhà mình. Tôi nhớ đến toà binh đinh quét vôi trắng, kế bảo sanh viện Lương Kim Vi, hằng ngày có những người lính cao lớn, ngón tay to bằng quả chuối hay ngoắc vẫy lũ trẻ chơi đánh đáo trong xóm, thảy những phong kẹo cao su. Thầy cấm không cho tôi lượm và cấm lai vãng đến gần. Toà binh đinh đồ sộ trước cửa, chỉ cần tôi lên lầu ba là nhìn thấy, ngay bên kia đường, trên sân thượng có chất bao cát. Mấy người lính gác hay đi qua đi lại trên nóc sân thượng hút thuốc. Tôi nhớ người lính da đen có đôi mắt lồi trắng dã mà chúng tôi gọi là ông kẹ. Tôi tưởng tượng ông kẹ đang bắn nhau với Việt Cộng. Tôi tưởng tượng chú Hải, chú Diệp, chú Các, chú Xá đang bắn nhau với Việt Cộng. Thầy ở đâu? Tôi nhớ thầy da diết. Tôi thèm được thầy hôn vào má, những cọng râu cứng của thầy làm tôi rùng mình. Tôi chưa biết lo lắng, nhưng tôi nhớ thầy, loáng thoáng hiểu thầy gặp nguy hiểm, tôi đọc nhẩm bài kinh Kính Mừng mà các sơ dạy trong trường để cầu nguyện cho thầy. Nhưng tôi chỉ đọc được mấy câu Kính mừng Maria đầy ơn phước, đức chúa trời ở cùng bà… rồi thiếp vào giấc ngủ. Trong giấc ngủ là một quãng vắng bình yên mà trí nhớ tôi không lưu trữ.

Sáng hôm sau tôi thức giấc dưới chân bàn thờ Phật, bức hình ông vẫn hiền từ bên cạnh hình bà nội chết trẻ. Tôi nằm giữa những cánh mai vàng lấm tấm rụng trên đất. Cành mai sáng mùng một còn vàng hoe bây giờ đã sớm rụng. Mùi nhang ngào ngạt. Mẹ đang khấn vái trước bàn thờ vẫn còn đầy hoa quả. Đĩa chôm chôm. Đĩa soài cát. Đĩa nhãn mọng. Quả dưa hấu to tướng và bốn cặp bánh chưng của cô Cắm gói. Tôi kêu đói. U nói để u đi chiên bánh chưng. Cả nhà túm tụm ở tầng thờ. Tôi biết đêm qua u Đào bế tôi lên trong giấc ngủ. Tôi dụi mắt nghe chị Ni nói đặc công nằm vùng uýnh binh đinh Mỹ thua rồi. Chúng tôi chạy ra cửa. Mẹ la: U không cho các em ra ngoài. U cản. Chúng tôi tiu nghỉu đứng sau hai lớp cửa sắt kín bưng. Ngôi nhà thiếu ánh sáng âm u. Trong bóng tối yên lặng tôi đếm những lỗ thủng trên tấm sắt, nắng rọi qua như những ống hơi ai luồn qua cửa, những ống hơi sáng trong vơ vẩn bụi bay theo đường ống. Tôi lấy tay chận ánh sáng, đưa qua đưa lại trước lỗ thủng trước khi áp sát vào lỗ sắt rồi xoè ra xem chiến tranh đã in lên bàn tay mình chưa. Bàn tay tôi trắng trẻo không dấu vết. Chiến tranh vẫn còn phía bên kia đường. Tôi an tâm. K đang châu mắt vào một lỗ thủng. K vừa nhìn vừa nói có mấy xác chết trước hiệu phở Bình. Tôi cũng châu mắt vào xem. Qua lỗ thủng, trên mặt đường một xác đàn ông tênh hênh không thấy mặt. Một xác khác nằm úp tay quặp dưới bụng. Một xác nữa ruột đổ ra mặt đường. Chung quanh có lớp sẫm sền sệt. Không thấy súng, chỉ có một cái khăn ca rô sọc ngang sọc dọc vất lây lất gần nắp cống. Tôi cố ngước nhìn lên binh đinh Mỹ, nhưng mấy cái lỗ đạn quá thấp, quỳ gối cũng không nhìn thấy, chỉ thấy cái bục gác trống không.

Đến trưa nhà ông Thanh Tùng chạy sang đập cửa nói đánh lớn ở kho quân cụ, Bộ tư lệnh Hải quân bị vây rồi. Mẹ không cho mở cửa. Cô Ốn điện thoại báo tin chú Ốn kẹt ở cổng số 4 bộ Tổng Tham Mưu chưa biết sống chết. Chú Sâm bị bắn chết ở Tổng Nha Cảnh Sát. Chú Diệp, chú Các, chú Hải ứng chiến không có tin tức. Việt Cộng đã vào Sài Gòn. Chú Hênh từ dưới Chợ Lớn điện tiếp: Chị Bảo, Pá em sang với cô Cắm bị kẹt ở cầu chữ Y rồi, đánh lớn lắm, tụi nó về nhiều lắm. Chế Màn hỏi anh Pảo có tin tức gì không?

2.
Vẫn chưa có tin của thầy. Mẹ cũng bấn, cố giữ bình tĩnh, thắp thêm nhang, sai u đong thêm túi gạo. Mẹ dặn đong ít thôi, không vác nặng, u còn phải trông các em. Rồi mẹ gọi lại cho cô Sâm chia buồn, cô Sâm là nữ quân nhân, chú Sâm vừa biệt phái về Tổng Nha mấy hôm trước Tết. Nhưng đường dây điện thoại bị đứt. Chị N bật truyền hình, đài truyền hình không phát hình. Mẹ bảo mở radio, các bản nhạc hùng trầm bổng. Chị N nghĩ Việt Cộng chiếm đài phát thanh rồi. Mẹ bảo Chưa. Nếu đài phát thanh bị chiếm họ đã phát lệnh hiệu triệu. K hỏi nhưng nếu chưa bị chiếm sao không có tin tức. Mẹ không biết. Mẹ muốn gọi cho cô Út, cô Cắm, thím Hải, hỏi thăm các chú được lệnh trình diện đơn vị, nhưng đường giây vẫn bị cắt. Súng lúc này không còn nổ phía chùa Vĩnh Nghiêm mà âm âm khu cầu Sắt. Chị em chúng tôi rúc xuống bếp. U lại chiên bánh chưng. U khuyên Mợ ăn lấy sức. Mẹ đụng đũa chiếu lệ, than thở: Không biết ông Bảo bây giờ ra sao. U an ủi mẹ: Cậu mợ ở hiền, trời Phật độ. Tuy nói vậy, nhưng u cũng rươm rướm nước mắt. Chị em chúng tôi ai cũng nhớ thầy. Sợ thầy gặp nạn. Sau Tết Mậu Thân thầy kể, chuyến xe đò của thầy đi từ Long An lên Sài Gòn bị Việt Cộng chận. Việt Cộng của tỉnh đội Tân An pha đèn bấm giữa mặt thầy, may mắn xe ở đồn quân cảnh chạy ngang, Việt Cộng xả súng bắn rồi bỏ chạy, thầy nhảy xuống mương, đến khi liên đoàn Bảo An đi qua được cứu. Tội chết mất ông trung sĩ quân cảnh. Lần nào kể chuyện, thầy cũng nhắc đến ông trung sĩ thế mạng, nếu không có ông chắc thầy đã bị bắt đi.

Lúc này bích kích pháo rơi xuống phía Gò Vấp liên tục. Lửa cháy ở phía Hàng Xanh có cuộn. Tiếng hoả tiễn rơi nghe rất lạ. Ban đầu giống như có tiếng sáo, rồi tiếng gió hú, tiếng nổ làm mặt đất rung, cuối cùng mới là tiếng rít xoáy. Gia đình ông Thanh Tùng di tản, chạy ngang nhà đập cửa: Tụi nó vào tới Tân Sơn Nhứt, Tổng Tham Mưu rồi, chạy đi. Ông bà Tuấn Kiệt cũng chạy qua nhà gọi: Bà Bảo chạy đi, Việt Cộng chiếm trại Phi Long, Lăng Cha Cả rồi. Mẹ bắt đầu mất điềm tĩnh. Gia đình ông bà bán hàng sơn cũng chạy, chỉ có hiệu bún bò Tân Thanh khuyên mọi người ở lại. Mẹ hối: U đã cất đồ của cụ chưa. U hấp tấp, vừa bế tôi vừa cho các di vật trên bàn thờ vào bao. Bốn tấm ảnh của cụ cố, ông nội, bà nội, chị Zính. U với tay lấy cái tráp, bên trong có một cuốn vở ghi gia phả, vài cặp kính của những người đã khuất, chiếc bật lửa đốt dầu hôi bằng nhôm của ông và một ve rượu đế. Tôi nhìn u túm tất cả lại, kỹ lưỡng, tuy gấp gáp mà u vẫn gói thận trọng sợ vỡ khung ảnh, làm như u sợ ông la. Tôi biết cái tráp. Nhiều lần tò mò mở xem, tôi hỏi Tại sao nhà mình giữ ve rượu. Thầy nói ve rượu là di vật, không được vất. Cô Cắm nói ve rượu ông nội cháu uống dở khi chết. Ve rượu đem từ ngoài Bắc, ông nội cháu đi đâu cũng giắt theo mình. Tôi vặn nắp chai. Chiếc nắp thiếc đã rỉ, đáy ve cạn khô, nhưng hơi rượu cay đến chóng mặt. Chiếc bật lửa bằng nhôm có khảm mấy chữ Tàu, bên dưới khắc 1920. Bây giờ Sài Gòn còn chiếc bật lửa nào chạy dầu hôi hay không? Cuốn gia phả viết bằng ba thứ chữ Hoa, Pháp, Việt. Tôi chỉ đọc được phần cuối tiếng Việt, do ông chú chép: Cố tên Lưu Kim Nhật, ông tên Lưu Phú Chương, ông chú tên Lưu Phú Quý, thầy Lưu Linh Bảo. Sao phần cháu không ghi gì. Cô Cắm cười ông chú chừa trang cho cháu sau này viết. Cái tráp chỉ là một hộp bánh biscuit. Tôi nhìn u bọc thêm lớp gấm rồi thắt bao vải. Mẹ gọi U ơi nhanh lên. Giọng K sốt ruột, u ơi người ta đi hết rồi. N đâu? Ni lên phòng xem N đâu? Chị N xuất hiện. Chị mặc đầm trắng, nón trắng, giày trắng, ví đầm, bước xuống cầu thang. Con xong rồi mẹ. Chị nhoẽn cười. Cô đi thay đồ ngay cho tôi. Mẹ gắt. Chị phụng phịu. Chị là hoa khôi Thiên Phước, chị tâm niệm phải luôn xinh đẹp trong mọi hoàn cảnh. Tôi hỏi u, con có phải thay đồ không u. U vuốt đầu: Cậu mặc như vậy được, để u mang tất cho cậu. U tròng bít tất cho tôi, trong lúc tôi lại hỏi: Con mặc pyjama ra đường hở u? U cười pyjama của cậu hách lắm.

Súng bất chợt nổ ác liệt. Súng bắn liên thanh miệt dưới Chi Lăng rồi lan ra cả phía cầu Bông. Chị Ni chạy thục mạng từ cửa vào hốt hoảng: Cô ơi lính Mỹ rút rồi. Đánh tới dưới chân cầu rồi. Mẹ quyết định chạy theo lính Mỹ. Nhưng lính Mỹ đã biến mất. Toà binh đinh bỏ không. Trống hoác. Không còn ai trên tầng thượng chỉ còn trơ dẫy bao cát. Cánh cửa sắt mở toang phơi bày mặt đường ngổn ngang ba cái xác vẫn nằm đó, cạnh đoàn người chạy loạn từ bên kia Phú Nhuận băng qua cầu Kiệu tràn xuống Hai Bà Trưng. Ánh sáng sáng trưng. Ánh sáng đến nhức mắt. Chiến tranh phơi bày tất cả dữ dằn. Những sợi dây điện đứt, mấy chiếc xe hơi kính bể nát, một tấm biển quảng cáo thuốc lá Mélia thủng lỗ chỗ. Chúng tôi đứng líu ríu nép bên mẹ và u Đào. Ánh sáng nhức mắt vì chúng tôi ở trong bóng mờ quá lâu. Nhưng sau này tôi vẫn muốn nghĩ chính hình ảnh thật của chiến tranh làm chúng tôi nhức mắt chứ không phải ánh nắng. Chiến tranh làm đau đớn đôi mắt của người Việt, chứ không phải mặt trời. Sau này tôi nghĩ vậy. Khi ấy, K để ý lá cờ vàng ba sọc treo trước nhà sáng mùng một bị ai giật mất. Chị N thắc mắc anh Trình bên Pharmacie Dung có bị Việt Cộng bắt hay không. Sao cửa sắt bên đó im lìm hay họ bị Việt Cộng dẫn đi hết rồi. Mẹ hối chúng tôi nhập vào dòng người. Mẹ dặn: U và Ni nắm tay các em không được để lạc. Trường hợp lạc đưa các em đến dưỡng đường của Bác sĩ Nguyễn Duy Tài trên đường Duy Tân, không được đến đâu khác. Nói là gia đình bà Bảo Lợi thầu cung cấp ở Vũng Tàu lúc trước. U nhớ không? U lắp bắp nhưng mẹ đã bắt u nắm chắc lấy tay tôi rồi hối cả nhà chạy theo đoàn người. Tôi bỡ ngỡ nhìn đường phố tôi vẫn đi học mỗi sáng. Mới hôm qua xác pháo còn đỏ thẫm. Mới hôm qua tôi đứng bịt tai xem K châm pháo. Pháo nổ ròn rã, ròn tan. Pháo đì đùng. Tôi say mùi pháo thơm ngát, túi ngập phong bao lì xì. Bây giờ đại lộ Hai Bà Trưng rách nát. Tôi nhìn hiệu thuốc cam hàng Bạc, hiệu uốn tóc Tân Hồng Kông, tiệm Hải Ký, tiệm bánh cuốn Thanh Xuân, tiệm kem Ngọc Lan, rạp hát Kinh Thành, tất cả hiện ra, tơi tả. Tất cả dị hợm đến kỳ dị. Mấy xe mì ngả chỏng chơ, sạp bánh cuốn bị ai lôi ra lề đường, hiệu ảnh Chí Mỹ bể kính, các tấm phông vẽ đoàn cải lương Dạ Lý Hương rách loang lổ, xe nước mía đầy vết đạn. Bảo sanh viện Lương Kim Vi chật cứng người. Rồi tôi không thấy gì nữa. Người lớn chen lấn tứ phía. Những thân người to lớn húc đẩy vây lấy chị em chúng tôi. Tôi nghe tiếng u Đào van vỉ, van xin mọi người đừng dẫm lên chúng tôi. Ông ơi cho các cháu đi qua. Nhưng u cũng bị lấn. Cuối cùng u cõng tôi lên lưng, một tay xách túi gạo, u đeo bao di vật quanh cổ. Trên lưng u, tôi thấy từng cuộn khói đen bốc lên từ phía rạp Kinh Đô. Đoàn người đông vô kể, bồng bế, gồng gánh, khuân vác, đi như chạy. Chập chập súng nổ từng tràng lớn. Tiếng súng lớn súng nhỏ lẫn lộn. Mỗi chập như vậy, mọi người co rúm lại, ngồi thụp xuống. Sau tiếng nổ lớn, là những tiếng hô hoán: Hoả tiễn 122 ly rớt trúng rạp Văn Hoa cháy rồi. Cháy ở Đa Kao. Việt Cộng đột kích trại Hoàng Hoa Thám. Trực thăng bay vần vũ về phía Thị Nghè. Một người nói Đi theo hướng trực thăng bên mình. Người khác chửi Đang đánh ở Thị Nghè, đi về hướng đó cho chết hả. Tiếng trẻ nít la thét, tất cả hỗn độn.

Súng nổ chát chúa. Đám đông lại rú lên nhốn nháo. Tôi bấu cứng lấy u vì sợ. Đột ngột từ đầu đoàn chạy loạn phát lên tiếng kêu mừng rỡ: Lính Cộng Hoà! Lính Cộng Hoà!

Tôi thấy mẹ chảy nước mắt. Tôi thấy u chảy nước mắt. Tôi thấy chị Ni mắt đỏ hoe và không hiểu vì sao anh em chúng tôi cũng khóc. Vì sự xúc động của người lớn. Tôi không rõ, nhưng bây giờ tôi hiểu, tôi khóc vì mẹ và u khóc. Vì những giọt nước mắt của mẹ mang những giọt nước mắt cho tôi. Vì nỗi lo của mẹ mang nỗi lo cho tôi. Vì niềm hân hoan của mẹ giành cho tôi. Vì u thương gia đình tôi và vì u đang khóc cho gia đình tôi may mắn. U nức nở Sống rồi mợ ơi. Sống rồi mợ ơi. Mẹ gật đầu Nhà mình sống rồi. Các con nín đi, nhà mình sống rồi.

Chúng tôi vẫn khóc trong mừng rỡ. Mẹ bảo nín nhưng mẹ vẫn ứa nước mắt. Tôi vừa thút thít vừa mở lớn mắt. Những người lính Biệt Động Quân đội mũ sắt vẽ hình đầu cọp vàng bước hàng một từ hướng nghĩa địa Mạc Đỉnh Chi tiến xuống. Một Đại uý đi đầu không ngớt khua tay: Đồng bào yên tâm, đồng bào yên tâm, Việt Cộng đã bị đánh bật ra khỏi quận Nhất. Tiểu đoàn chúng tôi xuống tăng cường quận Phú Nhuận. Đồng bào cứ tiến về phía trước, tiếp tục tiến về phía trước, sẽ gặp trạm y tế cứu trợ. Đừng chen lấn. Chính quyền quốc gia sẽ đánh bật Cộng Sản ra khỏi Sài Gòn. Đồng bào yên tâm, đồng bào yên tâm…

Một người lính Biệt Động Quân trèo lên cột đèn tháo cờ "Mặt Trận Giải Phóng". Tất cả mọi người vẫn chảy nước mắt. Khóc cho tuôn hết những sợ hãi. Đại uý Hùng. Tôi còn nhớ bảng tên ông trên nắp áo. Ông đi qua trước mặt tôi, ông không ngớt lập đi lập lại: Đồng bào đi lên phía trước, có sữa, có thuốc men, có Quân cảnh bảo vệ… Tôi nhìn ông đăm đăm. Sau này tôi biết, chiến tranh đã chụp bắt tôi từ trận Mậu Thân. Mặc dù tôi chỉ là một đứa bé, chiến tranh không tha thứ. Tôi biết mãi mãi chiến tranh sẽ chế ngự linh hồn mình, tàn phá huỷ diệt tâm tính mình, nhưng tôi cũng biết, một cách tiềm ẩn, chính chiến tranh trong buổi sáng ngày hôm ấy, buổi sáng mùng hai Tết Mậu Thân, đã định hình, đã dạy cho tôi biết phân biệt những khác biệt trong chiến tranh. Có những người lính giết hại, thủ tiêu, đập đầu, như sẽ diễn ra ngoài Huế, và có những người lính mà sự hiện diện đồng nghĩa với sự sống. Tôi mang những người lính này trong lòng như một di vật!

Chúng tôi an táng chú Sâm ở Bắc Việt Nghĩa Trang, trưa mùng bảy Tết Mậu Thân, 1968!

Trần Vũ

AI MUA TRĂNG HÀN MẠC TỬ BÁN TRĂNG CHO....

Nén Tâm Hương Tưởng Nhớ Nhà Thơ Hàn Mặc Tử


Hàn Mặc Tử chết năm 28 tuổi, chấm dứt một số phận kỳ lạ. Đã gần 70 năm qua, cuộc đời nhà thơ vẫn còn trong bí mật. Mặc dầu báo chí, sách vở, âm nhạc, điện ảnh , diễn kịch, tất cả nói về Hàn Mặc Tử rất nhiều, nhưng không sao giải bày hết được.
 Cali Today News 

Xuân đến, tri ân nhà thơ Hàn Mặc Tử đã cho chúng ta tắm gội trong nguồn ánh sáng của hương hoa châu báu, tiếng nhạc, lời kinh để hồn ta tràn đầy thanh khiết trong mùa Xuân Như Ý. Chúng ta, lắng lại lòng mình với nén tâm hương tưởng nhớ nhà thơ Hàn Mặc Tử. Một thiên tài khổ lụy. Cuộc đời ngắn ngủi đầy bất hạnh bi thương.Và kỳ diệu thay, những giây phút cuối cùng, thi ca và tôn giáo đã hoàn thiện con người Hàn Mặc Tử. Nhà thơ đã thăng hoa vào niềm tin của Chúa. Cuộc đời và thi ca của Hàn Mặc Tử đã hòa vào nguồn đạo bao la.
 
Nhà thơ sống quá ngắn ngủi và đau thương cho nên một chữ viết ra là hơi thở và máu lệ. Hàn Mặc Tử khát khao tình yêu cháy bỏng trong oan nghiệt và bệnh tật hiểm nghèo.Ta hãy lắng nghe những dòng thơ:
 
Tôi vẫn còn đây hay ở đâu?
 Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu
 Sao bông phượng nở trong màu huyết
 Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu
(Những giọt lệ.)
 
 Hàn Mặc Tử tột cùng khổ đau và bất hạnh. Năm 24 tuổi đã mắc chứng bệnh quái ác, hiểm nghèo. Những năm đầu khi biết mình đã bị bệnh phong. Hàn Mặc Tử đã tự xa lánh, cô lập không tiếp xúc bất kỳ ai. Ngay cả gia đình cũng đã gửi Hàn Mặc Tử đi lánh nạn ở những chốn hoang vu, vắng vẻ thuộc vùng Gò Bồi trong tỉnh Bình Định, nhiều nơi chỉ là những túp lều cô độc, trống trải, quạnh hiu. 
 
 Là một phế nhân, bệnh càng tăng, đau khổ càng chồng chất, Hàn Mặc Tử càng cảm hứng, sáng tác nhiều vần thơ dạt dào, thống thiết: 
 
 Hồn theo tôi như muốn cợt tôi chơi
 Môi đầy hương tôi không dám ngậm cười.
 (Hồn là ai)
 
Quá đau thương như:
 
Hồn đã cấu đã cào, nhai ngấu nghiến
 Thịt da tôi sượng sần và tê điếng
 Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
 Tôi dìm hồn xuống vũng trăng êm
 Cho trăng ngập, trăng dồn lên phía ngực.
 (Hồn là ai) 
 
Chia sẻ niềm cô độc với nhà thơ: 
 Chao ôi! ghê quá trong tư tưởng
 Một vũng cô liêu cũ vạn đời
 
(Cô liêu)
 
 Hàn Mặc Tử chết năm 28 tuổi, chấm dứt một số phận kỳ lạ. Đã gần 70 năm qua, cuộc đời nhà thơ vẫn còn trong bí mật. Mặc dầu báo chí, sách vở, âm nhạc, điện ảnh , diễn kịch, tất cả nói về Hàn Mặc Tử rất nhiều, nhưng không sao giải bày hết được. Nhiều linh mục đã viết và mở nhữngdiễn đàn về Hàn Mặc Tử, tôn vinh là một nhà thơ Công Giáo. Đúng, cả cuộc đời Hàn Mặc Tử đã sống trong vòng tay Chúa, cuối đời lại được chăm sóc bởi những tấm lòng dịu hiền, thương yêu của các sơ ở Trại Phong Quy Hòa thành phố Quy Nhơn, Bình định.
 
Trong bài viết ngắn này, người viết thử nghiệm và sơ phác cuộc đời nhà thơ qua cái nhìn của Phật giáo, mà cụ thể là soi sáng qua bốn chân lý diệu kỳ: Khổ. Tập. Diệt. Đạo = Bốn sự thật cao qúy = Tứ Diệu Đế của nhà Phật.
Thứ nhất: Khổ đế, Đức Phật dạy: Nước mắt của chúng sinh nhiều hơn nước của bốn đại dương. Đó là thực chất của đời sống, không ai thoát được. Thứ hai: Tập đế là nguyên nhân của khổ đau.Thứ ba: Diệt đế là trạng thái vắng lặng tuyệt đối trong đó mọi khổ đau trong đời sống đều dập tắt. Và cuối cùng: Đạo đế là con đường đưa đến an tịnh tuyệt đối, chấm dứt đau khổ, con đường tỉnh thức, giải thoát và an lạc. 
Chúng ta thử đi vào cuộc đời và thi ca của Hàn Mặc Tử, qua cái nhìn của Tứ Diệu Đế. Thứ nhất:Khi nhận biết điều kiện thực sự của khổ và thấy suốt khổ mà không né tránh, không tìm cách chuyển hóa để chấm dứt khổ, mà lại buông xuôi thỏa hiệp- đấy là khổ đế. Khổ đến với tất cả mọi người. Bệnh khổ. Ái, biệt ly là khổ, cầu bất đắc khổ, cùng vô vàn nổi khổ đang tồn tại...Hàn Mặc Tử khổ sở, điên cuồng vì bị bệnh phong. Thân xác đôi lúc tê cứng sượng sần:
 
 Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời- bời ruột gan
(Muôn năm sầu thảm) 
 
 Vào những mùa trăng, người bệnh phong cùi càng đau đớn hơn. Định mệnh thật khắc nghiệt đối với nhà thơ. Ông sinh ra giữa mùa trăng, chơi giữa mùa trăng, như tựa đề một tác phẩm của ông và mất cũng vào một đêm trăng âm lịch tức là ngày 12 tháng 10 năm Canh thìn. Trăng là nét đặc biệt trong thơ Hàn Mặc Tử. Khi viết lời tựa cho tập thơ của mình, nhà thơ đã viết: ‘’Ai nói vườn trăng là vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa nguồn trong trẻo. Trên đầu người là cao cả, vô biên và vô lượng’’
 
Trăng bàng bạc trong thơ Hàn Mặc Tử: 
 Em có ngờ đâu trong những đêm
 Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm
 Anh đi thơ thẩn trong ngây dại
 Hứng lấy hương nồng trong áo em
 (Âm thầm) 
 
Và thật lãng mạn, lạ lùng:
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Đau đớn dữ dội nhà thơ gào thét:
 Trời hỡi bao giờ tôi chết đi
 Bao giờ tôi hết được yêu vì
 Bao giờ nhật nguyệt tan thành máu
 Và khối lòng tôi cứng tợ si?
 
 (Những giọt lệ)
 
Hàn Mặc Tử như điên như loạn, dồn tất cả vào thơ:
 Luạ trời ai dệt với ai căng?
 Ai thả chim bay đến Quảng Hàn?
 Và ai gánh máu đi trên tuyết
 Mảnh áo da cừu ngắm nở nang.
 
 (Cuối thu)
 
Điên loạn ngập tràn hình ảnh lạ trong thơ: trăng, hồn, máu, bóng ma, sọ người, xương cốt, tinh tủy. Một thế giới rùng rợn: 
 
 Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
 Mỗi hồn thơ đều dính nảo cân ta
 Bao nét chữ quay cuồng như máu vọt
 Như mê man chết điếng cả làn da.
 
 Ái lực của nhà thơ quá mạnh. Cảm xúc nảo nề trong một thân thể hư hoại vô phương cứu chữa, đẩy chàng trở thành phế nhân, sống trong đau đớn để chờ chết, trong lúc tuổi đời của nhà thơ mới hai mươi, quá trẻ và phải chịu một tai ương quá lớn so với sức chịu đựng của con người. Với hoàn cảnh đó nhiều người đã tìm con đường chết. Nhưng Hàn Mặc Tử từ khổ đau bất hạnh đó đã vận dụng hết tinh anh, phát tiết hết tất cả năng lực của mình để sống, để sáng tác thi ca. Thi ca làm người đời yêu thương chàng. Thi ca diệt khổ, khi nhà thơ ca ngợi tình yêu và cái huy hoàng của sự sống. Biết khổ đau và bất hạnh nhưng vẫn vươn lên, làm mới cuộc sống, yêu đời và yêu nhân thế. Đó là sự nhiệm mầu của khổ đế ở con người của Hàn Mặc Tử.
 
 Tại sao cuộc đời Hàn Mặc Tử lại tột cùng khổ đau, oan nghiệt và bất hạnh như thế? Nguyên nhân? Ta thử nhìn vào chân lý thứ hai là Tập đế một trong bốn sự thật cao quý-Tứ diệu đế của nhà Phật. Chúng ta tìm hiểu nguyên nhân nào đã sinh ra những khổ đau. Hàn Mặc Tử tài hoa mà bất hạnh. Cụ Nguyễn Du đã viết: 
 Trăm năm trong cỏi người ta
 
 Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. 
 
 Và: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Nhà thơ tài hoa thiên phú lại gắn chặt vào nghiệp lực đọa đày bởi bệnh tật và còn vô vàn bất hạnh trút xuống. Thân thì điên cuồng vì bệnh hoạn mà tâm thì quá khổ đau trong tình yêu bất toại. Nhà thơ cuồng si, khao khát tình yêu, đa sầu đa cảm gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Biết bao nhiêu hình bóng giai nhân để lại trong thơ Hàn Mặc Tử. Nhà thơ lãng mạn. Đời sống tinh thần quá kích động:
Ở không yên ổn, ngồi không vững vàng 
 
 (Kiều. Nguyễn Du) 
 
 Nhà thơ ngập sâu vào trong giây oan nghiệt của cõi tình. Đau khổ vì yêu mà phải ly biệt. Nhất là người yêu Mộng Cầm, hai người đã thề nguyền gắn bó keo sơn, nhưng khi biết được Nhà thơ bị bệnh phong cùi là chỉ sau sáu tháng đã bỏ chàng để đi lấy chồng. Mộng Cầm, Lầu Ông Hoàng, Phan Thiết là nơi Mộng Cầm và nhà thơ đã dạo chơi thuở nào, tất cả tan vỡ đầy nước mắt thương đau: 
 
 Ta lang thang tìm chốn lầu trăng
 Lầu Ông Hoàng, người thiên hạ đồn vang
 Nơi đã khóc đã yêu thương da diết
 Ôi trời ôi! là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi..
 (Phan Thiết) 
 
 Người xưa nói:Có người yêu mà một ngày không gặp dài như ba năm. Nhất nhật bất kiến như tam thu hề. Đó là có người yêu bằng da bằng thịt thật sự. Riêng Hàn Mặc Tử người yêu đôi khi chỉ là bóng hình như tiên nữ, không thật. Tác nhân gây đau khổ không có. Thương Thương chỉ là nàng thơ. Qua hình bóng ảo, nhà thơ sáng tác những vần thơ khổ đau xé ruột, và qua những vần thơ đó người đọc cảm thấy niềm đau đớn khôn nguôi như niềm đau của chính mình. Nhà thơ sống mơ mộng, vọng tưởng. Thương Thương là không thực. Một hình bóng không thực chôn giấu trong lòng Hàn Mặc Tử. Những hạt mê đắm cuồng si nung nấu, để rồi rền rĩ đau thương: 
 Bây giờ đây khóc than niềm ly hận
 
 Hởi Thương Thương, người ngọc của lòng anh 
 
 (Kịch thơ Duyên Kỳ Ngộ) 
 
 Ái dục ngủ ngầm trong mỗi chúng ta, là nguyên nhân bất hạnh trong đời sống. Lòng ái dục kết tập trong suốt kiếp sống, chi phối sai khiến: 
 
 Ma đưa lối qủy dẫn đường 
 Lại tìm những chốn đọan trường mà đi. 
 (Kiều- Nguyễn Du) 
 
 Bệnh tật hiểm nghèo và trôi lăn trong tình ái đã làm cho nhà thơ tột cùng khổ đau. Ham muốn của con người không chỉ giới hạn trong vật chất, không được lòng yêu thương của kẻ khác cũng sinh phiền muộn khổ đau, vòng quay bất toại cứ luẩn quẩn. Như một phế nhân nằm chờ chết. Hàn Mặc Tử tìm về đạo thơ, là cứu cánh của Chân Thiện Mỹ. Đó là con đường diệt đế nhiệm mầu đưa đến trạng thái vắng lặng tuyệt đối, trong đó mọi khổ đau trong đời sống đều dập tắt. Hàn Mặc Tử thi hóa cuộc đời để vượt thoát khỏi trần gian ô trược. Trong lời tựa của tập thơ, nhà thơ đã ghi: ỀTôi làm thơ? Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng...Và anh sẽ cảm giác lạ, nhìn không chớp mắt khi một tia sáng xôn xao tại có vì sao vỡ. Những thứ ấy là âm điệu của thơ tôi, âm điệu thiêng liêng tạo ra trong khi máu cuồng rền vang dưới ngòi bút.ỂBệnh cố nhiên là khổ, nhưng nếu không có bệnh, không thấy được khi không bệnh là hạnh phúc. Hàn Mặc Tử nhờ có bệnh nên mới có những dòng thơ bi thiết: 
 
 Máu đã khô rồi thơ cũng khô
 Tình ta chết yểu tự bao giờ
 Từ nay trong gió, trong mây gió
 Lời thảm thương rền khắp nẻo mơ 
 (Trút linh hồn)
 
Khổ đau làm chúng ta thành người nhất là khi ý thức được cuộc đời là vô thường vô ngã. Có khổ đau chúng ta mới hiểu và thương đời sống. Cảm nhận được tất cả mọi sự vật đều biến đổi không ngừng. Ngay trong ta, tế bào vẫn thay đổi liên tục trong từng phút giây. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy mọi trạng huống khổ đau, sầu bi, hoan hỹ, khoái lạc thay đổi trong từng chốc lát:
 
Tôi lạy muôn vì tinh tú nhé
Xin đừng luân chuyển để thời gian
Chậm đi, cho kẻ tôi yêu dấu 
 Vẫn giữ màu tươi một mỹ nhân. 
 (Thời gian)
 
Hàn Mặc Tử xin đất trời đừng luân chuyển. Nhưng nếu không luân chuyển làm sao có thời gian. Thời gian là sự nhiệm mầu của đời sống. Sinh rồi diệt và diệt để rồi sinh. Diệt đế là sự thật nhiệm mầu có năng lực chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Chuyển nghiệp bất thiện thành thiện. Chúng ta càng nhận ra năng lực của con người vô cùng lớn lao, sẽ cải tiến không ngừng để hài hòa giữa vô thường nghiệt ngã. Hàn Mặc Tử đặt niềm tin vào năng lực bí mật của sự sống để chống chọi lại đau khổ. Sức mạnh của sự sống sẽ tăng lên khi cái tự ngã bé nhỏ giảm dần để hòa vào cái đại ngã cuả vũ trụ. Và nhờ sự chan hòa đó, cái vô cùng của vũ trụ lại trở về nuôi dưỡng cái tự ngã. Một sự hòa nhập diệu kỳ giữa con người và đất trời mầu nhiệm.
 
 Khắp mười phương điềm lạ trổ hoài nghi:
 Cây bằng gấm và lòng sông toàn ngọc
 Và đầu hôm một vì sao liền mọc.
 Ở phương Nam mầu nhiệm biết ngần mô!
 Vì muôn kinh dồn dập cỏi thơm tho
 Thêm ý nghĩa sáng trưng như thất bảo
 Ta chắp hai tay lạy qùy hoan hảo
 Ngửa trông cao, cầu nguyện trắng không gian 
 (Đêm Xuân Cầu Nguyện)
 
 Bệnh hoạn là tác duyên, để nhà thơ đối đầu tôi luyện khổ đau cùng cực thành thơ mầu nhiệm, đưa hồn bay xa, vượt thoát lên miền miên viễn tràn đầy ánh sáng diệu kỳ: 
 
 Thượng thanh khí tiết ra nguồn tinh khí
 Xa xôi đồi trăng mọc nước Huyền vi.
 (Đừng cho lòng bay xa) 
 
 Bệnh tật càng bộc phát, thi ca của chàng càng thăng hoa. Thơ Đau Thương, Thơ Điên ra đời giải quyết những bế tắc trong tư tưởng. Nhà thơ chiêm nghiệm lẽ nhiệm mầu của vũ trụ, để diệt khổ bằng con đường thi hoá cuộc đời. Xa rời tục đế đạt đến chân đế. Tận hưởng trăng hoa, hương nhạc, châu báu của đất trời. Thi ca tỏa sáng, giải thoát, xuất thế gian: 
 
 Không gian đầy đặc toàn trăng cả
 Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng. 
(Huyền ảo)
 
 Chất thơ Hàn Mặc Tử dần dần có nhiều ma lực, đôi khi người đọc như bị cuốn hút bởi cảm giác lạ lùng nhưng không hiểu hết ý nghĩa: 
 
 Hẹn tối tảng sáng đi tìm mộng
 Mộng còn lưởng vưởng bến xa mơ
 Tiếng gà gáy rụng trăng đầu hạ
 Tôi hoảng hồn lên , giận sửng sờ..
 (Một miệng trăng) 
 
 Có những điệu ngọc vàng cao sang sảng
 Lời vang xa truyền nhiểm đến vô song
 Bầu hạo nhiên lồng lộng một màu trong
 Không rung động bởi tơ huyền náo nức.
 Hồn hỡihồn, bay ra ngoài kia mức..
(Ngoài vũ trụ) 
 
 Xót xa quá! lạ lùng quá! Trong những lúc ngón tay bị phong cùi co rút đau thương nhà thơ đã xuất thần những bài thơ tràn đầy nét đẹp tâm hồn: 
 Thơ có tuổi và chiêm bao có tích
 Và tâm tư có một điều rất thích
 Không nói ra vì sợ bớt say sưa
 Chàng ơi! chàng ơi! Sự lạ hôm qua
 Mùa xuân tới mà không ai biết cả...
 (Ra đời)
 
Tình yêu sâu xa với thế nhân luôn luôn được chia sẻ: 
 Xin dâng này máu đang tươi
 Này đây nước mắt giọng cười theo nhau
Hàn Mặc Tử quá thương yêu cuộc đời: 
 Ta còn trìu mến biết bao người
 Vẻ đẹp xa hoa của một trời
 Đầy lệ, đầy thương, đầy tuyệt vọng
 Ôi giờ hấp hối sắp chia phôi. 
 (Trút linh hồn)
 
 Giờ phút đó tuổi nhà thơ chỉ mới trên hai mươi. Và cơ thể tàn tạ, chàng viết lời tựa của Xuân Như Ý, tại Quy nhơn trong một ngày rất say, rất dại, rất nhớ rất thương như sau: ‘’Và loài người hãy cám ơn thi nhân đã đổ hết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong lúc miệng vẫn tươi cười sốt sắng... / Hãy cầu nguyện bằng trăm kinh mây gió/ Hãy dâng cho một tràng chuỗi trăng sao.’’ Tình yêu người, sâu xa và tha thiết của nhà thơ cùng thi ca diệu kỳ đã ở mãi trong lòng nhân thế. Và chính lẽ đó Hàn Mặc Tử đã trở thành bất tử.
 Hàn Mặc Tử quyết thoát vòng ô trược. Tẩy uế nội tâm không còn vướng ô nhiểm. Thản nhiên không xao động. Những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, đạo đế nhiệm mầu đã đi vào con người và thi ca Hàn Mặc Tử. Mặc dầu xác thân đau đớn tàn tạ vì phong cùi phát triển dữ dội nhưng Hàn Mặc Tử bình thản đối diện với cái chết, khi cảm nhận cuộc đời là vô thường, vô ngã. Chính điều đó đã mang đến phước báu, tràn đầy nội lực dũng mãnh, tạo thêm chiến thắng vĩ đại của một kiếp người. Giọng thơ của chàng không còn rên rĩ mà thanh thoát thăng hoa như tắm gội trong nguồn ánh sáng vô biên của Thiên chúa. Xuân Như Ý là một trong những tập thơ cuối cùng của Hàn Mặc Tử. Ta hãy nghe nhà thơ chan hoà đời mình trong lời tựa: ‘’Vì chưng muôn Xuân là lương thực ngon ngọt, mĩ vị, ánh Xuân là nguồn tư tưởng thơm tho, tinh khiết, khí Xuân là mạch trường sinh bất tử, tình Xuân là cung cầm nguyệt mê ly, tuổi Xuân là NGOC NHƯ Ý, tên Xuân là DẠ LAN HƯƠNG.’’Với cảm giác kích thích dồn dập thật lạ lùng thú vị khi đọc những lời tựa của Hàn Mặc Tử. Tựa Xuân Như Ý ngắn, chỉ khoảng trên bốn trăm chữ nhưng mỗi chữ là một linh hồn cần trân trọng. Những ngày cuối cùng chàng sống hoàn toàn với đạo. Hàn Mặc Tử cảm nhận và có cảm giác mạnh mẽ về sự đồng nhất trong vũ trụ. Khả năng hy hữu và lớn lao nhất là hoà điệu thi ca vào bệnh hoạn ác nghiệt và những bất toại của cuộc sống. Phong cùi không còn chi phối chàng. Hàn Mặc Tử an nhiên tự tại trong nỗi thống khổ đang đọa đày thân xác. Chàng không ngừng làm thơ. Con tằm đến thác vẫn còn vương tơ. Hàn Mặc Tử vắt kiệt sức lực hòa mình vào thi ca. Đối với chàng thơ không thể rứt ra được, đó là pháp môn để giải thoát. Những năm cuối cùng, khi biết mình không còn hy vọng sống, Hàn Mặc Tử tìm nguồn giải thoát cho linh hồn khắt khỏai qua thi ca và tôn giáo. Thơ của Hàn Mặc Tử càng tinh tế về ngôn từ, thuần khiết, chân chính, toàn hảo và hoàn mỹ...
 Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
 
 Cơn lâm lụy vừa trải qua dưới thế.
 Tôi cảm động rưng rưng hai dòng lệ.
 (Thánh Nữ đồng trinh Maria)
 
 Thật lạ lùng, thân xác quằn quại trong đau đớn, nhưng tâm hồn vô cùng định tỉnh và an lạc. Thần khí vững mạnh, xuất thần vào thơ. Ngôn ngữ trong Xuân Như Ý bỏ xa tục đế, tiến vào chân đế, cao sang và hạnh phúc. Nhà thơ nhắc nhở nhiều lần những từ ngữ: xuân, cõi thiên không, thánh đức, lưu ly, châu báu, nhạc, hương, thơm tho, ngọc, nhạc, ơn phước, lộc, gấm, toàn ngọc, thất bảo, hoa cung cấm, thần nhạc, long nhan, châu ngọc, ngọc như ý, thánh thể, phượng hoàng, trời đâu suất, chốn Phụng trì, cõi Đào nguyên.Với ngôn ngữ đó tâm thức cuả nhà thơ đã chuyển qua mùa xuân mầu nhiệm và vào cõi đạo bao la: 
 Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời
 
 Để ca tụng, bằng hương hoa sáng láng
 Bằng tràng hạt, bằng Sao Mai chiếu rạng
 Một đêm xuân là rấtđỗi anh linh? 
 (Thánh Nữ đồng trinh Maria)
 
 Cuối cùng với Hàn Mặc Tử, chốn Phụng trì, cõi Đào nguyên đã đến. Đó là nơi chốn bình thường, như mảnh vườn an lạc của mẹ, đầy tình người trìu mến bao la.
 
Trí (Hàn Mặc Tử) tâm sự: Tôi đến Quy Hoà là nơi có bãi biển, rừng dừa xanh, núi non hùng vĩ, cù lao xanh huyền ảo, đặc biệt là tình người nên tôi được hưởng sự bình an của nội tâm, cái thanh tao của nguồn vui tưởng như đã chết trong khi tôi sống ở xóm Tấn đầy đau khổ, nghèo nàn cô đơn, không một ai đến an ủi chăm sóc dù là ngườithân quyến ( Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử - trang 36-38. Nhà sưu khảo Nguyễn Xuân Tuyển). Trong sách đã dẫn này, chúng ta dễ dàng cảm nhận là nhà thơ đã sống như một nhà tu thật sự, chính Hàn Mặc Tử đã thổ lộ: Trong những ngày cuối đời, tôi chỉ biết ngâm thơ và cầu nguyện là nhiều hơn cả.Ể Ông Nguyễn Văn Xê là một đồng bệnh đã kể lại trước những giờ phút Hàn Mặc Tử qua đời: Đêm ngày 8 tháng11, năm 1940. Trí lấy hai tập giấy pelure, dùng bút chì cùn trong áo veston sáng tác bài thơ cuối cùng La Pureté de L’Âme (Tâm hồn thanh khiết) để ca tụng Đức Maria cùng các bà mẹ dưới đất là thân mẫu các nữ tu Phan Sinh đã săn sóc Trí. Đây là bút tích cuối đời của Trí....Chiều 9 tháng 11, 1940- Trí xưng tội lúc 16 giờ 30. Sáng ngày 10 tháng 11, năm 1940, lúc 6 giờ 45 Cha Tuyên Úy cho Trí chịu phép Xức Dầu bệnh nhân và rước lễ lần cuối...Đêm đó tôi (ông Xê) trực canh chừng Trí. Mẹ Nhất Juetta và sơ Julienne đến thăm Trí ba lần trong đêm. Lúc ba giờ sáng, sơ Julienne cho biết Trí khó lòng qua khỏi! Thời gian đêm nay đối với tôi như chùng hẳn xuống. Tôi nhìn Trí, ngoài những lúc đau bệnh, Trí khi qùy, lúc ngồi, khi nằm, trên tay lúc nào cũng cầm chuổi hạt đọc kinh cho đến lúc 5 giờ 45 sáng ngày 11 tháng 11, năm 1940 thì Trí nhẹ nhàng tắt thở một cách êm ái. (Đi tìm chân dung Hàn Mặc Tử, Sách đã dẫn) 
 
 Hàn Mặc Tử nhẹ nhàng ra đi để lại cho chúng ta những vần thơ tác tuyệt đầy tình người. Thi ca linh diệu đó mãi mãi thấm dần trong lòng chúng ta, qua đó chúng ta càng yêu thương cuộc đời, văn học và đất nước thêm lên. Hàn Mặc Tử là hiền nhân. Những bậc Hiền tài là nguyên khí quốc gia, lời văn đó đã được khắc ghi trên bia đá trong Văn miếu Thăng Long. Mùa xuân tha hương đang chuyển động giữa đất trời, lòng người nhớ thương về cố quốc. Người viết, năm 1995 trước khi rời nước ra đi đã đến thăm mộ nhà thơ ở Ghềng Ráng, Qui nhơn. Mộ phần hình chữ nhật tượng Đức Mẹ Maria trắng, hai tay giang rộng, mắt nhìn xuống như nâng đỡ nhà thơ. Trước mộ là thánh giá lớn bằng xi măng. Sổ lưu niệm cho khách thăm viếng và tên người viết đã nằm ở đó. Mộ phần với gió rì rào và sóng biển trắng xoá, đập đều đều vào ghềnh đá. Đất trời ẩn hiện, vắng lặng, an hoà. Tất cả như bất tận, như thi ca Hàn Mặc Tử bất tử trong văn học Việt Nam. Mộ Hàn Mặc Tử ở Ghềnh Ráng, gắn vào tên tuổi người bạn thơ là Cụ Quách Tấn. Gia đình nhà thơ và Cụ Quách Tấn đã xây ngôi mộ này cho Hàn Mặc Tử. Một bài học tình bạn tuyệt vời cho hậu thế noi theo. Mộ Hàn Mặc Tử sống mãi với Nước Non Bình Định*. 
Giờ đây, với nén tâm hương cảm tạ, tri ân và thương nhớ Hàn Mặc Tử, bởi nhà thơ đã đổ ra biết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay để mời cho được Xuân Thiên ra đời và trong những ngày linh hiển của năm mới hy vọng mỗi người chúng ta là một mùa xuân bất tận:
 
 Tứ thời Xuân,! Tứ thời Xuân non nước
 Phút thiêng liêng nhuần gội ánh thiều quang
 Thiên hạ bình, và trời tuôn ơn phước
 Như thiên triều vờn lượnkhắp không gian.
 (Nguồn thơm) 
 
 Tri ân quý hiền nhân đã bỏ thì giờ quý báu để đọc. Đây không phải là một bài nghiên cứu, mà chỉ là một nén tâm hương nghĩ đến nhà thơ bất hạnh, chỉ là một sơ phác, thể nghiệm qua cái nhìn của Bốn Chân lý Nhiệm Mầu của nhà Phật. Nếu những bước đi đầu tiên này là thuận lý, rất mong được nhận thêm ý kiến từ các bậc tri âm, cao minh chỉ bày, để lần tới bài viết đựơc sâu xa và hoàn chỉnh hơn bởi nhờ kiến thức và tấm lòng người bao la bất tận. Tâm ý của người viết chỉ mong cùng nhau có đựơc một mùa Xuân Như Ý 
 
 Người viết cám ơn những bài viết cuả Bác Sĩ Lê Văn Lân ( Hàn Mặc Tử và Chúa.) Trần Đình Thu (Hàn Mặc Tử có số phận kỳ lạ.) Linh mục Trần Qúy Thiện (Tưởng niệm nhà thơ công giáo Hàn Mặc Tử). Tất cả đã làm cho người viết mở trí, mở hồn và kích thích cho bài viết này có mặt.
 
 Tặng vợ B.H với Xuân Như Ý, để nhớ đến mùa Xuân pháo nổ rượu hồng ở Bamêthuột cách đây hơn hai mươi lăm năm.
 
 Cuộc đời- Thi ca và Ngôi mộ của Nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Ghềng Ráng, Qui Nhơn, tất cả thể hiện Nguồn Đạo Cao Cả Bao la: TÌNH NGỪƠI 
 
 Thành kính tri ân Đất Trời.
Kính chúc nhau An Lành và Hạnh phúc
 
Họa sỹ Nguyễn Văn Nhớ.

VIỆT CỘNG ĐANG CHỜ BÈO HOA DÂU, KHOAI LANG, RAU MUỐNG SẼ ĐƯỢC NGA TRỒNG TRÊN KHÔNG GIAN- CÓ NHỮNG NGƯỜI VÔ Ý THỨC NHÁI CHỮ HÀ LAN CỦA VIỆT CỘNG - PHẢI VIẾT LÀ HÒA LAN MỚI CÒN GỐC GÁC MIỀN NAM TỰ DO./- Mt68

Trồng và thu hoạch rau trên trạm không gian quốc tế

01/02/2014 20:56 (GMT + 7)

TTO - Các nhà khoa học Nga thông báo vừa thu hoạch đậu Hòà Lan, cải xanh Nhật và giống lúa mì thấp cây được trồng trên Trạm không gian quốc tế (ISS) và được xác nhận “đảm 
Các loại thực vật được trồng trên ISS được xác nhận “đảm bảo an toàn cho sức khỏe khi ăn” - Ảnh: NASA
>> 
“Các thí nghiệm trồng giống đậu Hoà Lan, cải xanh Nhật và lúa mì trên ISS đã thành công và đạt chất lượng hoàn hảo so với mong đợi của chúng tôi” -  nhà nghiên cứu Margarita Levinskikh, làm việc tại Viện nghiên cứu y tế và các vấn đề sinh học Matxcơva - nói trên hãng tin Nga - RIA Novosti.
Bà Levinskikh nói năm tới các phi hành gia Nga sẽ tiếp tục gieo lúa, trồng ớt chuông và cà chua sau khi sửa chữa xong nhà kính Lada trên ISS. “Đây là kế hoạch hợp tác giữa Viện và ĐH Utah State của Mỹ”, bà cho biết thêm.
Cải xanh Nhật được trồng trên ISS - Ảnh: NASA
Hiện nay tất cả các nguồn thực phẩm trên ISS được cung cấp định kỳ từ các lần vận chuyển hàng hóa và thực hiện sứ mệnh không gian từ trái đất.
Do đó, bước đột phá mới trong dự án “phát triển trang trại nông nghiệp” trên ISS không chỉ giúp các phi hành gia tự chế biến thức ăn trong thời gian dài nghiên cứu trên ISS, mà còn giúp “lọc” khí CO2 được thở ra từ các phi hành gia.
Mô hình trồng các loại thực vật trên ISS - Ảnh: NASA
Theo Daily Mail, trước đó, năm 2010, trường ĐH Florida (Mỹ) đã gửi những mẫu thực vật đầu tiên lên ISS. Đó là hạt giống của một loài hoa nhỏ bé màu trắng có tên khoa học Arabidopsis thaliana. Thí nghiệm cho thấy rễ cây vẫn mọc và phát triển bình thường trong môi trường không trọng lực.
THIÊN NHIÊN